Đỗ Kính Tu hay Lý Kính Tu (?-?) là một đại thần nhà Lý trong lịch sử Việt Nam.
Quê quán
Đỗ Kính Tu quê ở làng Hậu Ái.1 Hậu Ái sau là một thôn thuộc tổng Phương Canh, huyện Từ Liêm, tỉnh Hà Đông. Sau lại thuộc xã Kim Hoàng, huyện Hoài Đức1 , nay là xã Vân Canh, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội.
Sự nghiệp
Năm 1182, sau khi Thái úy Tô Hiến Thành mất, Đỗ Kính Tu được giữ chức Đế sư (thầy dạy học cho vua nhỏ Lý Cao Tông), từ đó chấm dứt hoàn toàn âm mưu phế lập của Chiêu Linh thái hậu.2 sau giữ chức Quốc sư phụ chính thời Lý Cao Tông.
Cuối thời Lý, vùng Đại Hoàng nổi dậy chống triều đình do Phí Lang cầm đầu. Năm 1204, Đỗ Kính Tu được sai đem quân tới đánh dẹp.2 Triều đình không giành được thắng lợi, vùng Đại Hoàng vẫn trong tình trạng ly khai trung ương tới tận thời Trần. Theo thần tích, Đỗ Kính Tu biết Phí Lang vốn là quan quân, do bất mãn với gian thần Đàm Dĩ Mông mới nổi dậy, nên Đỗ Kính Tu chỉ đánh lấy lệ rồi rút quân.1
Năm 1210, trước khi mất, Lý Cao Tông cho gọi Đỗ Kính Tu để ký thác.2 Lý Cao Tông mất, Đỗ Kính Tu phò Thái tử Sảm lên ngôi, tức vua Lý Huệ Tông, vì vậy được ban quốc tính, nên còn gọi là Lý Kính Tu.
Cái chết
Theo thần tích ở thôn Hậu Ái, để chống lũ, Lý Kính Tu đứng ra liên lạc với các làng, rồi thống nhất cho người đào ngòi Hương Khê từ Đồng Chầm thuộc thôn Hậu Ái, qua địa phận các thôn Kim Hoàng, An Trai, Hòe Thị, Thị Cấm, đến cửa chùa Linh Ứng ra sông Nhuệ. Trong triều có người vì việc đó tấu rằng Lý Kính Tu mưu phản, Lý Huệ Tông cho người xét tội. Lý Kính Tu uất ức, bèn trầm mình ở bãi Quân Thần (thuộc Từ Liêm) tự vẫn.1 Theo Nguyễn Vinh Phúc, có khả năng Lý Kính Tu bị mưu sát bởi âm mưu của thế lực họ Trần trong triều.1
Chú thích
- ^ a ă â b c Báo Hà Nội Mới, Số 7120, 6 Tháng Ba, 1988
- ^ a ă â Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ thực lục, Quyển IX
(Nguồn: Wikipedia)