Nguyễn Công Nhàn (?-1867) là danh tướng nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Năm 1861, quân Pháp tấn công Định Tường, Nguyễn Công Nhàn bị vu tội bỏ thành Mỹ Tho để đào thoát, hành động này đã bị nhiều người Việt chê trách. Tuy nhiên xét khía cạnh khác, ông vẫn được xem là người có công giữ gìn bờ cõi, là người chủ xướng việc đào kênh Vĩnh An Hà ở An Giang đem lại nhiều lợi ích thiết thực.

Sự nghiệp

Năm Minh Mạng thứ 19 (1838), Nguyễn Công Nhàn làm Phó vệ úy Khánh Hòa, rồi Định Tường.

Gặp lúc ở Khai Biên thuộc Hà Tiên có một người tên Châu vận động dân chúng nổi dậy, ông cùng Phó lãnh binh Nguyễn Tiến Phúc dẫn quân đến ruồng bố, bắt được già trẻ, trai gái khoảng 400 người. Việc tâu lên, Nguyễn Công Nhàn được thăng Vệ úy.

Cuối năm 1839, ông được điều sang Trấn Tây thành (Chân Lạp) làm Phó lãnh binh. Một hôm, bị quân Xiêm kéo đến vây đồn, ông chỉ huy quân lính chống trả quyết liệt suốt 24 ngày đêm mới được Lãnh binh Đoàn Văn Sách đến cứu. Tháng 11, quân Xiêm lại kéo nhau đến đánh phá. Đoàn Văn Sách bị thương nặng tại trận, nhờ ông xông đến cứu thoát, được nhà vua khen là dũng tướng, thăng cho một cấp quân công.

Năm 1840, Nguyễn Công Nhàn được thăng làm Lãnh binh Trấn Tây thành. Cũng trong năm này, ông đem khoảng 700 quân đánh mấy ngày liền, phá tan hơn 10 đồn của quân Xiêm từ Mi Súc đến Tà Sà, thu được rất nhiều vũ khí. Lần này, ông được vua Minh Mạng thưởng cho một tấm bài vàng có khắc chữ "hùng dũng tướng" để đeo.

Năm 1841, vua Minh Mạng qua đời, vua Thiệu Trị kế ngôi. Nhà vua mới duyệt xét chiến công, thăng cho Nguyễn Công Nhàn làm thự Chưởng vệ, sung Tham tán.

Khoảng thời gian này, ở miền Nam và ở Chân Lạp, có nhiều cuộc nổi dậy chống lại sự cai trị của nhà Nguyễn, các tướng là Trương Minh Giảng, Nguyễn Tiến Lâm, Lê Văn Đức, Nguyễn Công Trứ,... cứ phải đem quân đi tiễu trừ, đánh được chỗ này thì chỗ khác nổi lên. Quan quân có lúc chống không nổi, triều đình lấy việc ấy làm lo phiền. Vì vậy khi nghe Tạ Quang Cự tâu rằng nên bỏ Trấn Tây thành (Chân Lạp), rút quân về giữ An Giang, nhà vua liền nghe theo.

Về nước, Nguyễn Công Nhàn hội binh với các tướng đi tiễu trừ cuộc nổi dậy của Lâm Sâm ở phủ Lạc Hóa (nay là Trà Vinh). Đánh dẹp được, nhà vua thăng ông làm thự Đốc bộ tỉnh An Giang1 rồi hiệp với tướng Nguyễn Văn Điển đi đánh quân Xiêm đang quấy nhiễu ở vùng biên của tỉnh.

Tháng 2 (âm lịch) năm Nhâm Dần (1842), hơn chục ngàn quân Xiêm kéo sang Hà Âm (vùng biên giới Châu Đốc-Hà Tiên) lập rất nhiều đồn lũy. Bên bờ kênh Vĩnh Tế, Nguyễn Công Nhàn bàn với tướng Điển chia quân ra đánh lẻ vì lực lượng quân triều ít hơn. Nhờ vậy mà đuổi được quân xâm lấn, được nhà vua khen ngợi, cho ông làm Đốc bộ An Giang.

Cũng trong năm này, ông cùng với tướng Lê Văn Đức và Tôn Thất Bạch đánh đuổi được quân Xiêm ở Sâm Phủ, Bàn Ly, Sách Nô...lại được thăng làm Tổng đốc An Hà (An Giang-Hà Tiên). Ngoài ra, nhà vua còn cho phép ông được đề chữ "hùng dũng tướng" trước họ tên mỗi khi viết công văn hay tấu sớ.

Tháng 10 (âm lịch) năm 1843, Đốc bộ Nguyễn Công Nhàn hiệp cùng thự Tổng đốc Long Tường Nguyễn Tri Phương, Tuần phủ An Giang Nguyễn Công Trứ cùng xin vua cho khởi đào kênh Tân Châu (nay là kênh Vĩnh An) ở tỉnh An Giang, được nhà vua y cho2 .

Tháng giêng năm 1844, hơn nghìn người Chân Lạp lại đến đắp đồn lũy ở biên giới tỉnh An Giang. Tổng đốc Nguyễn Công Nhàn liền sai Lãnh binh Nguyễn Văn Hoàng đến đánh đồn Đa Phúc, Tuần phủ An Giang là Nguyễn Công Trứ đến đánh đồn Cần Thăng. Việc tuy xong, nhưng nhà vua trách ông và các tướng rằng: chỗ ấy ở vào khoảng giữa hai là đồn Đa Phúc và Cần Thăng, cách tỉnh thành lại không xa, cớ sao giặc Man đắp lũy ngầm mà các ngươi có trách nhiệm không từng biết đến! Chức vụ ở chỗ nào?...3

Năm 1844, Đào Văn Quận ở An Giang gửi đơn kiện Nguyễn Công Nhàn về việc nhận tiền hối lộ. Xét chuyện có thật, ông bị giáng bốn cấp, cắt lương một năm. Rồi vì không ưa Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Công Nhàn gửi sớ tâu rằng viên quan này đã lén phái người mua riêng sừng tê giác và đậu khấu. Nhà vua sai Tham tri Trần Ngọc Giao đi tra vấn. Khâm sai Giao về bẩm việc không đúng như lời tâu, ông mắc tội vu cáo bị xử phạt trượng, phát lưu 4 .

Tuy nhiên khi án dâng lên, nhà vua xét công trạng cũ cho giảm án, nên ông chỉ bị cách hết chức tước, buộc đến làm việc dưới quyền của Tôn Thất Bá. Nhưng không bao lâu, thì ông được phục chức Hiệp quản vì "có công đánh loạn ác man" (chữ trong sử Nguyễn).

Năm 1845, ông được bổ làm Phó lãnh binh phủ Tây Ninh, nhưng chỉ năm sau (1846) thì được điều đi đánh đuổi quân Chân Lạp đang quấy nhiễu ở vùng biên giới An Giang.

Năm 1847, việc Chân Lạp đã tạm lắng yên. Xét công, nhà vua phong cho ông tước Trí Thắng nam, được trả lại thẻ bài "hùng dũng tướng" và được khắc tên vào cổ súng Thần uy phục viễn (cổ thứ tư). Sau đó, ông được cử làm Lãnh binh Bình Định.

Năm Tự Đức thứ 9 (1856), Nguyễn Công Nhàn được thăng Chưởng vệ, lãnh chức Tuần phủ Hà Tiên, kiêm Bố chính sứ.

Đầu năm 1859, quân Pháp hãm thành Gia Định, Tổng thống quân vụ là Tôn Thất Hiệp xin cho ông làm Đề đốc quân vụ để cùng chống ngăn quân xâm lược. Ngày 17 tháng 2 năm 1859, thành Gia Định thất thủ. Tháng 7, Nguyễn Công Nhàn được bổ làm Hộ lý An Giang, rồi Tổng đốc Định Tường5 .

Ngày 26 tháng 3 năm 1861, quân Pháp tổ chức tấn công Định Tường, Nguyễn Công Nhàn vừa tới Định Tường thì thành Mỹ Tho đã thất thủ. Ông phải thu thập quân binh rút về cố thủ ở Kiến Đăng. Thành Mỹ Tho mất, ông bị tuần phủ Nguyễn Hữu Thành vu cho tội bỏ thành chạy, vua Tự Đức cho lột hết chức tước để chờ nghị tội nhưng vẫn ngầm yêu cầu ông lẻn về lỵ sở cũ để chiêu tập dân dõng mưu báo phục về sau.

Đến tháng 12 cùng năm, quân Pháp tiến đánh Biên Hòa. Theo sách Đại Nam chính biên liệt truyện (quyển 25) thì đình thần khi ấy đã tâu lên rằng:

Công Nhàn vốn thạo việc trận, ở triều đình không ai hơn được. Xin gia ơn cho Nhàn phục quân vệ, sung làm đốc binh, theo Nguyễn Tri Phương đi Biên Hòa bàn làm việc quân. Rồi sáu tỉnh (Nam Kỳ lục tỉnh) không giữ được, không biết công Nhàn về sau như thế nào6 .
Tháng Giêng năm Tự Đức thứ 15 (1862), vua đổi sai Đốc binh Nguyễn Công Nhàn làm Thương biện quân vụ Vĩnh Yên. Công Nhàn không tuân lệnh mà ở lại tiếp tục chiêu tập nghĩa dõng chống Pháp.
Theo lời truyền tụng trong dân gian vùng Long Hưng (Nước Xoáy) thuộc xã Long Hưng A, huyện Lấp Vò tỉnh Đồng Tháp. Hùng Dũng (Dõng) tướng quân Nguyễn Công Nhàn sau khi Định Tường thất thủ đã rút quân doanh về đây lập tổng hành dinh, chiêu tập nghĩa dõng để chống Pháp. Hiện nơi nầy còn địa danh Rạch Dinh là nơi ghe Ô, ghe Sa của ông thường ra vào nơi Tổng hành dinh. Nơi đây hiện còn ngôi mộ Hùng Dõng Đại tướng quân và các quan quân hầu cận trên địa phận ấp Hưng Thành Tây.

Nhận xét

Cũng trong sách trên, có đoạn khen ngợi Nguyễn Công Nhàn như sau:

Công Nhàn xuất thân từ người tướng hiệu nhỏ, trải qua nhiều trận, mạnh mà có chí. Về phép hành quân, Nhàn có thể lấy số quân ít đánh số quân nhiều; lại khéo dỗ quân lính, không nỡ khinh, dối, cho nên ai cũng đều vui, làm việc đến đâu là có công.
Hiến tổ (Thiệu Trị) thường bảo đại thần là Trương Đăng Quế rằng: "hiện nay tướng súy duy có Công Nhàn và Nguyễn Lương Nhàn mà thôi". Tướng Nguyễn Tri Phương cũng khen Công Nhàn dùng binh phảng phất với tướng Đoàn Công Sách, thực là dũng tướng một thời7 .
Tuy mang án oan về việc để mất thành Mỹ Tho nhưng Nguyễn Công Nhàn vẫn không thối chí mà quyết tâm tìm nơi hiểm địa để chiêu tập nghĩa dõng mưu báo phục, thậm chí kháng mệnh triều đình không đi Vĩnh Yên nhận chức mà quyết tử cố thủ để đền nợ nước ơn vua. Tấm lòng kiên trung của ông xứng đáng với danh hiệu Hùng Dũng Tướng.

Thông tin thêm

  • Theo sách Đại Nam thực lục chính biên (phần 9), thì kênh Vĩnh An khởi đào từ tháng 10 (âm lịch) năm 1843 đến tháng 4 (âm lịch) năm sau (1844) thì xong.

Con kênh nối từ sông Tiền (tại Tân Châu) đến sông Hậu (tại Châu Đốc) do nhân dân hai tỉnh là Vĩnh Long, An Giang cùng góp sức đào, dưới sự chỉ huy của Nguyễn Tri Phương và Nguyễn Công Nhàn. Vì lẽ đó, lúc ban đầu con kênh được mang tên Vĩnh An Hà. Sau này kênh còn có các tên khác là: Long An Hà, Tân Châu Hà, Kênh Vĩnh An, Kênh Cũ. Nhiều tư liệu cho rằng kinh mang tên Vĩnh An Hà là vì có sự góp sức của nhân dân ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên là không đúng, vì chữ "Hà" nghĩa là sông chứ không phải chỉ tỉnh Hà Tiên.

Và cũng vì dòng kênh đã đem lại lợi ích nhiều mặt: quốc phòng, kinh tế, thủy lợi, giao thông và phục vụ dân sinh; nên sau này để tỏ lòng biết ơn, người ta đã đặt tên hai con đường bên bờ kênh là Nguyễn Tri Phương và Nguyễn Công Nhàn.

Tuy nhiên, lần hồi kênh cạn dần vì phù sa lắng đọng, nhất là chỗ giáp nước tại vàm kênh (Châu Giang, Châu Đốc). Đến khi người Pháp cho đào thêm Kênh Xáng sâu rộng hơn vào năm 1914 (hoàn thành năm 1918), thì kênh Vĩnh An mất hẳn vai trò quan trọng.

Trải thời gian, con kênh càng bị bồi lấp và ô nhiễm nặng, theo trang Thông tin thị xã Tân Châu thì ngày 10 tháng 8 năm 2009, chính quyền địa phương đã tổ chức lễ động thổ, khởi công công trình san lắp kênh Vĩnh An (đoạn thị trấn Tân Châu), hình thành cụm tuyến dân cư ven hai đường Nguyễn Tri Phương và Nguyễn Công Nhàn 8 .

  • Việc Nguyễn Công Nhàn bị vu cáo bỏ thành Mỹ Tho nên dư luận bàng quang về sau không hiểu rõ có nhiều chê trách. Tương truyền, nhà thơ Khuyết danh đã làm bài thơ sau:
Có quan hùng dũng Nguyễn Công Nhàn
Hùng dũng nhưng mà lại nhát gan
Giặc tới Bến Tranh run lập cập
Tàu vô Cửa Tiểu chạy bò càng.
Mưu thần trước biết ngang sông chắn
Kế giữ sau toan đóng củi hàng.
Thất thủ muốn liều cho giữ tiết,
Ngặt vì con, vợ bận chưa an9 .

Ngày 21 tháng 4 năm 2016, hội thảo khoa học về Hùng Dõng tướng Nguyễn Công Nhàn diễn ra tại Đồng Tháp đã chính thức minh oan cho ông và các nhà sử học đã chứng minh bài thơ trên được sáng tác sau sự kiện thất thủ Mỹ Tho khoảng trên nữa thế kỷ. Hội thảo đã chứng minh Nguyễn Công Nhàn là người có công giữ gìn bờ cõi, là người chủ xướng việc đào kênh Long An Hà đem lại nhiều lợi ích thiết thực. Hiện ở thị xã Tân Châu, có con đường mang tên ông.

Xem thêm

  • Cuộc nổi dậy Lâm Sâm
  • Pháp đánh chiếm Định Tường

Chú thích

  1. ^ Ghi theo Đia chí An Giang (quyển 2, tr.229). Nhóm phiên dịch sách Đại Nam chính biên liệt truyện dịch là Đô đốc.
  2. ^ Chép theo Đại Nam thực lục chính biên. Địa chí An Giang (quyển 2, tr. 229) chỉ ghi tên mỗi mình Nguyễn Công Nhàn, chứng tỏ ông là người có vai trò quan trọng.
  3. ^ Theo Đại Nam thực lục chính biên(phần 9, tập 6, trang 571, bản điện tử).
  4. ^ Đại Nam thực lục chính biên (tập 6, phần chép về Nguyễn Công Trứ) kể chi tiết: Công Trứ trước làm chức tham tán cầm quân, Công Nhàn xuất thân là tì tướng, nay lại ở địa vị trên, Công Trứ vì thế bất bình. Công Nhàn biết tâm trạng ấy, ỷ chức bèn hại ngầm Công Trứ. Nhân bắt được đội trưởng đồn Chu Giang là Mai Văn Thạch tự tiện hộ tống 4 chiếc thuyền buôn lậu. Công Nhàn và Nghĩa Phương cùng tra hỏi rồi tâu lên rằng Công Trứ phái người đi dò thăm ở xứ Trấn Tây, mua riêng tê giác và đậu khấu. Vua sai Tham tri bộ Lễ Trần Ngọc Giao và Cấp sự trung Đặng Kham đi đến ngay để tra xét. Biết hết được tình trạng Công Nhàn vu cáo để buộc tội, Ngọc Giao dâng án lên, Nghĩa Phương và Công Nhàn vì tội vu cáo bị xử phạt trượng, phát lưu (tr. 611-612).
  5. ^ Ghi theo Đại Nam chính biên liệt truyện. Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim ghi ông làm chức Hộ đốc Định Tường. Xem bản điện tử: [1].
  6. ^ Đại Nam chính biên liệt truyện (quyển 25), tr. 540.
  7. ^ Đại Nam chính biên liệt truyện (quyển 25), tr. 541.
  8. ^ Xem chi tiết và hình ảnh ở đây: [2] và [3].
  9. ^ Chép theo Việt Nam thi nhân tiền chiến (quyển hạ) do Nguyễn Tấn Long-Nguyễn Hữu Trọng biên soạn. Nhà xuất bản Sống Mới, Sài Gòn, 1969, tr. 634. Có tham khảo thêm: [4].

Sách tham khảo

  • Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam chính biên liệt truyện. Nhà xuất bản Văn Học, 2004.
  • Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục chính biên (phần 9, bản điện tử [5])
  • Nhiều người soạn, Địa chí An Giang (tập 2). UBND tỉnh An Giang in và phát hành năm 2007.

(Nguồn: Wikipedia)