Tùy Dạng Đế
隋炀帝
Hoàng đế Trung Hoa (chi tiết...)
Sui Yangdi Tang.jpg
Tranh vẽ Tùy Dạng Đế của Diêm Lập Bản, họa sĩ thời Đường
Hoàng đế Đại Tùy
Trị vì 21 tháng 8 năm 604 – 11 tháng 4 năm 618
(13 năm, 233 ngày)
Tiền nhiệm Tùy Văn Đế
Kế nhiệm Tùy Cung Đế
Thông tin chung
Hoàng hậu Tiêu hoàng hậu, công chúa Tây Lương
Phi tần
Hậu duệ
Tên húy Dương Quảng (杨廣) hay Dương Anh (杨英)
Tước hiệu Tấn Vương
Hoàng đế nhà Tùy
Niên hiệu Đại Nghiệp (大業: 605–617)
Thụy hiệu Dạng Đế (煬帝)
Miếu hiệu Thế Tổ (世祖)
Triều đại Nhà Tùy
Thân phụ Tùy Văn Đế
Thân mẫu Văn Hiến Hoàng hậu Độc Cô thị
Sinh 569
Mất 11 tháng 4, 618

Tùy Dạng Đế (chữ Hán: 隋炀帝, 569 - 11 tháng 4, 618), tên thật là Dương Quảng (楊廣 hay 杨廣) hay Dương Anh (楊英 hay 杨英), tiểu tự là A Ma (阿?) là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại nhà Tùy trong lịch sử Trung Quốc.

Tùy Dạng Đế tên thật là Dương Quảng, là con thứ hai của Tùy Văn Đế (Dương Kiên). Năm 589 khi mới 21 tuổi, ông đã lập công lớn tiêu diệt Nhà Trần ở phương Nam, thống nhất Trung Hoa sau hơn 250 năm. Năm 600, Dương Quảng được Tùy Văn Đế sách lập làm Hoàng thái tử thay người anh là Dương Dũng bị phế truất. Từ năm 602, Dương Quảng bắt đầu xử lý quốc sự, nắm đại quyền trong tay. Năm 604, Dương Quảng đã bí mật độc sát cha rồi lên làm vua.

Trong những năm đầu trị vì, Dạng Đế mở mang khoa cử, đẩy mạnh lưu thông đường thủy bằng kênh đào Đại Vận Hà, xây dựng lại Đông Đô Lạc Dương, mở rộng Trường Thành, lập nhiều công trạng cho xã tắc. Nhưng càng về sau, Dạng Đế càng tỏ ra hoang dâm hiếu sắc, bỏ bê chính sự, trọng dụng gian thần, xa lánh trung lương, lại tăng thuế nhằm phục vụ cho việc xây dựng những cung điện, vườn ngự xa hoa làm nơi hưởng lạc, bóc lột sức dân xây thành đắp sông, lại nhiều lần tiến công Lâm Ấp, Cao Câu Ly... khiến quân tướng tổn hao, lòng dân oán hận. Cuối thời Dạng Đế, quần hùng nổi dậy khởi nghĩa kháng Tùy, triều Tùy dần đi vào con đường suy vong. Năm 616, Tùy Dạng Đế rời khỏi Lạc Dương, tuần du về phương nam và ở đây trong suốt hai năm. Năm 618, ông bị Hứa Quốc công Vũ Văn Hóa Cập sát hại ở Giang Đô1 , không bao lâu sau đó, nhà Tùy chính thức diệt vong.

Thời trẻ

Dương Quảng là con trai thứ hai của Tùy Văn Đế Dương Kiên với Hoàng hậu Độc Cô Già La, con gái Tướng quân Độc Cô Tín thời Bắc Chu2 , chào đời vào năm 569, khi Tùy Văn Đế còn là đại thần dưới triều Bắc Chu. Lúc mới sinh ra, ông được đặt tên là Dương Anh. Ông được miêu tả là người có dung mạo đẹp đẽ, thông minh xuất chúng, do đó rất được Văn Đế yêu quý. Cuối thời Bắc Chu, Dương Kiên thâu tóm quyền lực trong triều, nắm giữ tước vị Tùy Quốc công rồi Tùy Vương. Dương Anh tuy còn nhỏ tuổi, chưa lập công trạng nhưng nhờ vào gia thế hiển hách mà được trọng vọng, phong tước vị Nhạn Môn Quận công3 .

Năm 581, Dương Kiên cướp ngôi nhà Bắc Chu, lập ra nhà Tùy4 5 . Dương Anh khi đó mới 13 tuổi, được phong làm Tấn Vương, Trụ quốc, Tổng quản Tĩnh châu6 . Không lâu sau, ông được thăng làm Vũ Vệ Đại tướng quân, Thượng trụ quốc, Hà Bắc Đạo Hành Đại Thượng thư lệnh, Văn Đế lại ra lệnh cho Hạng Thành Quận công Vương Thiều7 và An Đạo công Lý Triệt làm phụ đạo. Cũng trong năm này, Tùy Văn Đế đổi tên Dương Anh thành Dương Quảng.

Dương Quảng thông minh hiếu học, được Văn Đế ưu ái và nhiều đại thần coi trọng. Văn Đế có lần bí mật sai Lai Hòa xem tướng các con trai của mình, Lai Hòa nói trên người Dương Quảng có song long cốt, số về sau sẽ phú quý đến không thể nói hết. Trước mặt cha mẹ, Dương Quảng tỏ ra tiết kiệm và cung kính, được nhiều người xưng tụng là có hiếu đạo.

Năm 582, do sự sắp đặt của cha, Dương Quảng thành hôn với Tiêu thị, con gái của Tây Lương Minh Đế, hơn ông ba tuổi, phong Tiêu thị làm Tấn Vương phi8 . Năm 586, Tùy Văn Đế đổi phong Dương Quảng làm Thành Đài Thượng thư lệnh, sau đó bái làm Ung châu mục, Nội sử lệnh.

Thời Tùy Văn Đế

Liên tục lập công

Năm 588, Tùy Văn Đế phái Dương Quảng đến Thọ Xuân9 và giao cho cai trị vùng đất này. Mùa đông, Tùy Văn Đế quyết định đem binh diệt Nam Trần, thống nhất Trung Hoa. Dương Quảng năm đó 21 tuổi, được Văn Đế phong làm Hành Quân Nguyên soái, cùng Dương Tuấn, Dương Tố, Hạ Nhược Bật... thống lĩnh 11 vạn quân vượt Trường Giang đánh Trần. Mùa hạ năm 589, Dương Quảng tiến vào thành Kiến Khang, bắt sống được Vua Trần là Trần Thúc Bảo, tiêu diệt nước Trần, thống nhất Trung Hoa.10 11 12 . Trong trận này, Dương Quảng bắt được các quan lại gồm Thứ sử Tương châu Thi Văn Khánh, Tán kị thường thị Thẩm Khách Khanh, Thị lệnh Dương Tuệ Lãng, Hình Pháp quan Từ Tích... Khi tiến vào thành Kiến Khang, thấy sủng phi của Trần Thúc Bảo là Trương Lệ Hoa có nhan sắc, Dương Quảng sinh lòng ham muốn, muốn chiếm lấy, nhưng sau đó nghe lời của Hạ Nhược Bật, cho giết Trương Lệ Hoa.

Dương Quảng đối đãi tử tế với Trần Thúc Bảo và khuyên ông ta viết thư cho các tướng lĩnh chưa đầu hàng nên sớm quy phục nhà Tùy. Không bao lâu sau, toàn bộ nước Trần được bình định.

Dương Quảng vẫn tỏ ra khiêm tốn và chỉ làm những việc thuận lòng người. Lúc đó có Thượng thư đô lệnh Sử Kị Tuệ, nịnh hót bề trên, hãm hại dân chúng, Dương Quảng sai chém đi, do đó được xưng tụng là người hiền. Không lâu sau, Tùy Văn Đế xét công diệt Trần, phong Dương Quảng làm Thái úy, ban cho xe, ngựa, áo mão, ngọc khuê và bạch bích, sau đó lại phong ông làm Tổng quản Tĩnh châu. Cùng năm, Cao Trí Tuệ ở Giang Nam hội quân làm loạn, Văn Đế phái Dương Quảng đến Giang Đô dẹp loạn, và cho phép ông mỗi năm chỉ cần vào chầu một lần. Mấy năm sau, Dương Quảng được đổi phong là Vũ Hậu Đại tướng quân rồi được cử ra bắc chống lại sự xâm lược của Đột Quyết, tuy nhiên không thu được kết quả gì.

Năm 594, Dương Quảng khuyên Tùy Văn Đế tế trời ở núi Thái Sơn, nhưng Văn Đế đang chủ trương tiết kiệm, nên không nghe theo lời ông. Tháng 4 năm 600, Đạt Đầu Khả Hãn của Hung Nô đem quân tấn công biên giới nhà Tùy. Tùy Văn Đế phái Dương Quảng và Thừa tướng Việt Công Dương Tố đem quân ra Linh Vũ Đạo, Vương Lượng và Thái Bình Công Sử Vạn Tuế đem quân ra Mã Ấp Đạo cự địch. Cuối cùng đánh bại được quân Đột Quyết13 14 .

Đoạt ngôi Thái tử

Độc Cô Hoàng hậu là người đề cao chế độ độc thê nên không ưa những người có nhiều hầu thiếp, do đó khi thấy Thái tử Dương Dũng sủng ái Chiêu huấn Vân thị, sau đó đến việc Chính phi của Thái tử là Nguyên thị chết không rõ ràng nên ngày càng không hài lòng với Dương Dũng. Dương Quảng biết được, muốn tranh ngôi Thái tử nên mặc dù cũng có nhiều hầu thiếp, song tỏ ra ít thân mật mà chỉ sủng ái Tiêu Vương phi, do đó Độc Cô Hoàng hậu rất hài lòng. Trong triều, ông dùng vàng bạc mua chuộc các đại thần nhằm tạo dựng vây cánh.

Tùy Văn Đế tuổi cao, chính sự trong triều bắt đầu giao cho Thái tử Dương Dũng. Dương Dũng không có tài về chính trị, lại hoang phí xa xỉ, nên Văn Đế không hài lòng. Năm 600, Dương Dũng dùng lễ nhạc trái với nghi lễ, các đại thần dâng biểu cáo tội lên Văn Đế, muốn phế ngôi Thái tử. Vân Chiêu huấn sau khi Thái tử phi Nguyên thị mất, trở thành vợ đích của Dũng, sinh được nhiều con... Độc Cô không thích vợ thứ sinh nhiều con mà lấn át vợ đích, nên thường khiển trách Dương Dũng và đôi khi còn xử tử vài người thiếp của ông, nhưng Dũng vẫn không theo theo. Còn trong phủ Tấn Vương, Dương Quảng và Vương phi Tiêu thị sắt cầm hòa hợp, được Độc Cô khen ngợi. Văn Đế và Độc Cô Hoàng hậu mỗi lần ngự giá phủ Tấn Vương, Dương Quảng và Tiêu Phi đều tiếp đón chu đáo và cung kính.

Dương Quảng liên kết với Tổng quản An châu Vũ Văn Thuật tạo phe cánh trong triều, tâu xin Văn Đế phong Thuật làm Thứ sử Thọ Châu, lại trọng dụng Trương Hành làm kẻ thân cận, Hành nhiều lần lập mưu để Dương Quảng chiếm ngôi Thái tử. Vũ Văn Thuật lại khuyên Dương Quảng liên kết với Thừa tướng Dương Tố đang nắm đại quyền trong triều, do đó được Dương Tố ủng hộ. Dương Tố lại nhiều lần khen Dương Quảng trước mặt Độc Cô Hoàng hậu, sau cùng Độc Cô lại lập kế muốn đưa Dương Quảng lên ngôi thái tử.

Dương Dũng biết tin, vô cùng lo sợ, Văn Đế thấy Dương Dũng có hành vi khác lạ, sai Dương Tố đến quan sát. Dương Tố liên kết với một số tay chân trong Đông cung, vu cáo với Văn Đế rằng Dũng có ý tạo phản. Dương Quảng lệnh cho Đốc Vương Phủ quân Cô Tang quan sát hành động của Dương Dũng, đồng thời đút lót cho thân cận của Dũng là Cơ Uy, Uy bèn dâng thư tố cáo Dương Dũng lên Văn Đế. Tháng 9 năm 600, Dương Tố lại tố cáo Dương Dũng. Văn Đế theo kế của Tố, sai Dương Dũng kiểm tra dư đảng loạn tặc. Dương Tố sai người đến quan sát, rồi bí mật tố cáo Dương Dũng khích bọn họ làm loạn. Văn Đế tức giận. Tháng 10, nhà vua chính thức hạ chiếu phế truất Dương Dũng cùng những người con làm thứ nhân15 . Sang tháng 11 cùng năm, Văn Đế phong cho Dương Quảng làm Hoàng thái tử, chuyển vào Đông cung. Lúc đó đất trời bỗng dưng có địa chấn. Dương Quảng cầu xin Văn Đế khi vào triều không cần làm chuẩn bị đại triều cầu kì cho Thái tử, ra lệnh cho các quan không cần xưng thần với ông14 .

Giết cha đoạt ngôi

Sau khi lên làm Thái tử, Dương Quảng lại tìm cách hãm hại những người em khác để củng cố ngôi vị. Năm 602, ông và Dương Tố vu tội cho người em trai thứ tư của mình là Thục Vương Dương Tú đang nắm quyền ở Ích châu16 tội danh tham ô. Văn Đế triệu Dương Tú về Trường An điều tra. Dương Quảng bèn sai mua chuộc thủ hạ của Dương Tú, cùng nhau tố cáo ông ta. Cuối cùng, Dương Tú bị Tùy Văn Đế bắt giam và phế truất.

Cũng trong năm đó, mẹ Dương Quảng là Độc Cô Hoàng hậu qua đời. Dương Quảng tỏ ra đau buồn than khóc, không chịu ăn uống trước mặt Văn Đế suốt vài tháng. Tuy nhiên ông vẫn ăn uống bình thường mỗi khi về Đông cung. Sau khi Độc Cô chết đi, Tùy Đế sủng ái Tuyên Hoa Phu nhân Trần thị, con gái Trần Tuyên Đế, và Dung Hoa Phu nhân Thái thị người quận Đan Dương17 . Dương Quảng cũng ra sức lấy lòng hai Phu nhân. Tháng giêng năm 604, Văn Đế bị bệnh nặng, di giá về cung Nhân Thọ nghỉ dưỡng, chính vụ trong triều đều giao cho Dương Quảng giải quyết. Không lâu sau bệnh tình trở nặng, bèn triệu Dương Quảng vào cung. Dương Quảng biết Văn Đế không sống được nữa, đâm ra lo sợ, bèn bí mật gởi thư cho Dương Tố hỏi về hậu sự sau này. Không ngờ bức thư trả lời của Dương Tố bị cung nhân phát hiện, báo lên Văn Đế. Văn Đế rất giận, nhưng sau đó bỏ qua việc này.

Dương Quảng vào cung thăm Văn Đế, thấy Tuyên Hoa Phu nhân phong tư tài mạo tót vời, bèn lên tiếng chọc ghẹo rồi giở trò cưỡng bức Phu nhân. Tuyên Hoa hoảng sợ, chạy về cung Nhân Thọ báo với Văn Đế18 . Văn Đế tức giận nói

Súc sinh làm sao có thể gánh vác đại sự? Độc Cô làm hỏng việc lớn của ta rồi19 ! Nếu không nhân lúc trẫm còn chút hơi thở tàn mà phế bỏ tên súc sinh này, lập lại con trưởng Dương Dũng, hậu sự há có thể lường được chăng?.

Rồi sai Liễu Thuật, Nguyên Nham triệu Dương Dũng vào cung. Nhưng có người báo việc cho Dương Quảng và Dương Tố. Dương Quảng lo sợ, sai bắt Liễu Thuật, Nguyên Nham tống vào ngục, đem quân sĩ Đông cung đến thay làm hộ vệ cho Văn Đế, không cho ai ra vào cung Nhân Thọ, rồi sai Vũ Văn Thuật, Quách Diễn bao vây cung Nhân Thọ, sai Trương Hành vào tẩm điện, đuổi hết cung nhân ra ngoài rồi dùng rượu độc sát hại Tùy Văn Đế20 . Sau đó, Dương Quảng lại cướp đoạt hai Phu nhân Trần, Thái làm phi tần của mình.

Trị vì thời kì đầu

Thanh trừng kẻ chống đối

Ngày 21 tháng 8 năm 604, Dương Quảng lên ngôi, đổi niên hiệu là Đại Nghiệp, tức là Tùy Dạng Đế. Sau đó, ông ép anh là Dương Dũng phải thắt cổ tự tử15 , truy phong Dương Dũng là Phòng Lăng Vương, nhưng không cho con cháu tập tước. Sau đó ông tiếp tục tìm cớ giết hết con cháu Dương Dũng. Lại đày Liễu Thuật đến Long Xuyên, Nguyên Nham đến Nam Hải. Liễu Thuật vốn lấy em gái Dạng Đế là Công chúa Lan Lăng, Dạng Đế muốn bà từ hôn với Thuật. Công chúa không chịu, lại xin cùng Thuật đi Long Xuyên. Dạng Đế tức giận, không đồng ý. Công chúa sau đó đau khổ mà mất, trước lúc mất xin Dạng Đế cho an táng mình ở nhà họ Liễu. Dạng Đế tuy chấp nhận, nhưng vẫn vô cùng tức giận, trong ngày tang công chúa không đến dự, và ra lệnh chỉ làm lễ tang một cách sơ sài.

Em trai út của Dạng Đế là Hán Vương Dương Lượng, đang làm Tổng quản Tĩnh châu, cai quản 52 châu phía bắc Hoàng Hà, từ khi thấy Dương Dũng và Dương Tú bị Dương Quảng hãm hãi, trong lòng rất lo lắng. Đến khi Văn Đế băng hà, Dạng Đế sai Khuất Đột Thông đến chỗ Dương Lượng báo tin. Dương Lượng biết rằng Dương Quảng chủ mưu, bèn đem quân làm phản, đuổi Khuất Đột Thông về Trường An. Thứ sử Lam châu Kiều Chung Quỳ và 19 châu đem quân hưởng ứng Dương Lượng, thanh thế rất lớn. Nghe tin Dương Lượng tạo phản, Dạng Đế sai Hữu Vệ Tướng quận Khâu Hòa làm Thứ sử Bồ Châu, trấn giữ Bồ Tân để đề phòng. Nhưng không bao lâu sau, Dương Lượng dùng kế chiếm được Bồ châu, Khâu Hòa phải chạy về Trường An. Nhân đà thắng lợi, Dương Lượng sai 3 vạn quân đánh tới Đại châu, nhưng bị đại bại. Đúng lúc này, Dương Quảng sai Dương Tố đem 5000 quân tinh nhuệ tập kích Bồ châu, giành thắng lớn. Dạng Đế bèn xuống chiếu phong Dương Tố làm Tĩnh Châu Đạo hành quân Tổng quản, Hà Bắc Đạo An phủ sứ, tiếp tục dẫn hơn vạn quân công đánh Dương Lượng. Lý Tử Hùng ở Bột Hải cũng đem quân hưởng ứng, liên tiếp đánh bại Dương Lượng. Lượng hoảng sợ, lại dẫn 10 vạn quân ra giao chiến với Dương Tố ở Hao Thạch, cũng bị thua phải lui về Thanh Nguyên. Sau cùng, Lượng bị Dương Tố bắt sống ở Tấn Dương21 . Dạng Đế không giết, nhưng giáng làm thứ nhân và giam vào ngục.

Xây thành Đông Đô, đào Đại Vận hà

Tháng giêng năm 605, Dạng Đế lập Hoàng thái tử phi Tiêu thị làm Hoàng hậu và con trai trưởng của mình với Tiêu Hậu là Dương Chiêu làm Hoàng thái tử. Sang tháng 2 cùng năm, Dạng Đế xét công dẹp loạn của Dương Tố, cải phong làm Trung thư lệnh.

Từ cuối năm 604, thầy cúng Chương Cừu Thái Dực dâng tấu nói rằng kinh đô Trường An22 có phong thổ không thích hợp cho Tùy Dạng Đế, do đó ông chuẩn bị dời sang Đông Đô Lạc Dương, để Dương Chiêu ở lại trấn thủ Trường An. Tháng 3 năm 605, Dạng Đế sai Thừa tướng Dương Tố, Nạp ngôn Dương Đạt và Tương tác Đại tượng Vũ Văn Khải nhận lệnh xây dựng Đông Đô Lạc Dương, yêu cầu tháng 1 năm sau phải hoàn thành. Khi xây Đông Đô, cần số nhân công rất lớn, mỗi tháng lại trưng thêm hơn 200 vạn người, số người chết do quá sức đến 4, 5 phần, đội thu xác chết phải dùng xe chở tử thi, chết ở hương đông thì đem chôn ở Thành Cao, chết ở hướng tây thì chôn ở Hà Dương, liên tiếp không dứt. Sau khi xây xong Đông Đô, Tùy Dạng Đế chuyển hẳn sang đấy và rất ít khi trở về Trường An.

Dạng Đế lại ra lệnh đào hố rãnh có chu vi lớn quanh Đông Đô để tiện việc phòng thủ. Đến khi hoàn thành, Đông Đô có chu vi hơn 50 dặm, chia làm hơn 1000 phố, ba chợ buôn lớn là Phong Đô, Đại Đồng, Thông Viễn. Riêng chợ Phong Đô có 120 dãy, hơn 3.000 cửa hiệu, hơn 400 căn khách sạn, hao tốn tiền bạc và nhân công không kể xiết. Sang tháng 5, Tùy Dạng Đế cho xây Tây uyển, chu vi 200 dặm, xây biển nhân tạo hơn 10 dặm trong vườn, bên trong lại cho dựng các núi Bồng Lai, Phương Trượng, Doanh Châu, vượt cao khỏi mặt nước hơn trăm thước, đền đài miếu vũ la liệt trên núi. Ở cung Duyên Cừ, có tới 16 viện, mỗi viện do một Tứ phẩm Phu nhân làm chủ, quy mô hết sức xa hoa tráng lệ. Tùy Dạng Đế lại sai đào Thông Tê Cừ, tiếp nối công trình kênh đào Đại Vận hà dưới thời Tùy Văn Đế. Đoạn tây khởi đầu từ Tây Giao Lạc Dương hiện nay, dẫn nước Cốc Thủy và Lạc Thủy nhập vào Hoàng Hà, còn đoạn đông bắt đầu từ Tỉ Thủy Huỳnh Dương, theo thủy đạo do Phù Sai cho đào khi xưa, dẫn nước Hoàng Hà qua Biện Thủy, Tứ Thủy thông đến Hoài Hà; qua các thành thị là Biện châu23 Tống châu24 , Túc châu, Tứ châu25 . Cùng năm, triều Tùy lại huy động hơn 10 vạn dân Hoài Nam một lần nữa xây dựng Sơn Dương độc, chỉnh trị cho thẳng, không còn phải vòng qua hồ Xạ Dương mà tiến thẳng đến Trường Giang.

Cùng trong năm 605, tướng Tùy Lưu Phương vốn được lệnh Tùy Văn Đế đánh chiếm vùng Giao Châu năm 602, lại tiến xuống nước Chăm pa, bị quân của người Chăm đánh bại, lại thêm dịch bệnh tràn lan, mười người chết hết 4,5. Lưu Phương cũng chết trên đường về nước.26 27

Tuần du Giang Đô

Cũng trong năm 605, Tùy Dạng Đế cho đào kênh Thông Tế Cừ nối Lạc Dương đến bờ sông Hoàng Hà. Sau đó ông tiếp tục cho đào kênh đào Hàn Câu nối sông Hoài với sông Dương Tử. Đây là hai dự án kênh đào quan trọng được xây dựng dưới thời nhà Tùy, tuy nhiên lại phải tốn một nguồn kinh phí vô cùng lớn, gần một nửa số nhân công bị chết trong giai đoạn đào kênh. Sau đó, để phục vụ cho sự lãng phí xa hoa, Dạng Đế lại ra lệnh xây 40 hành cung khắp cả nước để tiện việc tuần du.

Mùa thu năm 605, Tùy Dạng Đế đem theo nhiều cung nhân xuôi dòng từ Lạc Dương tới Giang Đô tuần du bằng một chiếc thuyền lớn. Sang tháng 8 cùng năm, Dạng Đế đến được Giang Đô và lưu lại ở đấy một thời gian. Không lâu sau quân Khiết Đan tấn công vào Doanh châu28 . Tướng Tùy Vân Khởi liên quân với Đột Quyết đánh bại Khiết Đan.

Tháng 7 năm 606, Hoàng thái tử Dương Chiêu đến Lạc Dương yết kiến Dạng Đế, không may bị bệnh rồi mất trong năm đó. Tùy Dạng Đế từ đó không lập một Thái tử nào khác cho đến khi qua đời. Lúc này Dương Tố được Dạng Đế đổi phong Sở Quốc công, bề ngoài hai người rất tương đắc, nhưng bên trong Dạng Đế luôn nghi ngờ Dương Tố sẽ đe dọa đến ngôi vị của mình. May thay Dương Tố sớm mất vào năm 606, mối nghi ngờ của Dạng Đế được giải tỏa. Cũng trong năm đó, Dạng Đế phong vương cho con thứ Dương Giản và ba con của Dương Chiêu, nhưng không lập ai trong số họ làm Hoàng thái tôn kế thừa ngôi vị.

Tuần du phương bắc

Tháng giêng năm 607, Khã hãn A Sử Na Khải Dân của Đột Quyết đến Lạc Dương, yết kiến Tùy Dạng Đế và Tiêu Hoàng hậu, xin quy phục nhà Tùy. Dạng Đế phong cho Khải Dân làm phiên vương. Ít lâu sau, đại thần Ngưu Hoằng soạn xong bộ Đại Nghiệp luật lệnh gồm 18 thiên, quy định về pháp lệnh, dâng lên Dạng Đế.

Sang tháng 4 năm đó, Tùy Dạng Đế quyết định thực hiện tuần du đến Hà Bắc, vào đến đất Triệu, Ngụy. Ông lại cải cách chế độ quan chức trong triều, đổi tất cả các châu, gọi là quận, đổi chức Thượng trụ quốc là Đại phu, trong ngũ tỉnh thiết lập thời Văn Đế, ông giữ lại bốn tỉnh là Trí điện tỉnh, Nội sử tỉnh, Thượng thư tỉnh, Môn hạ tỉnh, còn Thái giám tỉnh đổi là Điện nội tỉnh, cải Tả, Hữu dục vệ làm Thập lục phủ. Về tước vị, trong sáu bậc tước, ông phế trừ Bá, Tử, Nam tước và lưu lại Vương, Công, Hầu tước.29

Ngày Bính Dần, Tùy Dạng Đế bắt đầu đi đến miền bắc. Sang tháng năm, khi Dạng Đế đến được Hà Bắc, Khả hãn Khải Dân phái con là A Sử Na Thác Đặc Lặc đến yết kiến ông. Trong thời gian này, Dạng Đế lại ra lệnh trưng đinh nam ở mười quận Hà Bắc, mở trì đạo qua Thái Hành Sơn, đến Tĩnh châu, và ra lệnh cho Khải Dân phải cho dân Đột Quyết trợ giúp việc mở đường. Khi Dạng Đế đến Nhạn Môn, Thái thú Khâu Hòa tiếp đón cung kính, dâng nhiều món ngon và mĩ nữ cho Dạng Đế, Dạng Đế bằng lòng. Tuy nhiên khi ông đến Mã Ấp, thái thú Dương Khuếch không kịp tiếp đón từ xa khiến Dạng Đế tức giận, bèn phong Khâu Hòa làm Bác Lăng thái thú và giáng Dương Khuếch dưới trướng Khâu Hòa. Các quan lại địa phương khác biết được việc ấy, nên mỗi nghi nghe tin vua đến đều chuẩn bị tiếp đón chu đáo và dùng nghi lễ xa xỉ. Cùng tháng 5, sứ giả Đột Quyết và các nước Cao Xương, Thổ Cốc Hồn... đến tiến cống cho nhà Tùy.

Ngày Giáp Thân, Dạng Đế đến ngự ở Bắc Lâu Quan, mở tiệc chiêu đãi trăm quan. Thái phủ Khanh Nguyên Thọ nói với ông việc năm xưa Hán Vũ Đế tuần du bắc phương để so sánh ông với Hán đế. Dạng Đế bèn thăng Thọ làm làm Thượng Tả Vũ Vệ tướng quân. Cùng năm đó, khi Tùy Dạng Đế đến Du Lâm lại ra lệnh dùng hơn 100.000 dân đinh mở rộng Vạn Lý Trường Thành, phía tây tới Du Lâm, phía đông tới Tử Hà30 . Thượng thư Tả bộc xạ Tô Úy khuyên ngăn ông, nhưng ông không nghe. Khi Trường Thành xây xong, Thái thường khanh Cao Quýnh can gián ông, dùng lời lẽ nặng nề và lại can ngăn việc Dạng Đế đãi ngộ Khải Dân quá tốt. Vũ Văn Bật và Hạ Nhược Bật cũng cùng can ngăn ông. Dạng Đế lấy tội danh phỉ báng triều chính, giết chết ba người, ép vợ con Cao Quýnh làm nô tì31 .

Tháng 8, Đế đến Lâu Phiền quan, rồi đến Thái Nguyên, ra lệnh xây hành cung ở Tấn Dương. Thiết Lặc đem quân xâm phạm biên cương nhà Tùy, Dạng Đế sai tướng quân Phùng Hiếu từ Đôn Hoàng ra chống trả, Thiết Lặc phải xin hàng. Từ đó, các bộ tộc phương bắc đều quy phục và tiến cống cho nhà Tùy. Sau đó Dạng Đế về kinh.

Trị vì thời kì giữa

Tranh chấp trong cung và việc chiến tranh ở phía bắc

Tháng giêng năm 608, Dạng Đế hạ chiếu tuyển mộ hơn 5.000.000 dân đinh xây Vĩnh Tế Cừ, dẫn nước sông từ Hoàng Hà thông tới Trác quận. Nhưng số đinh nam không đủ, Dạng Đế lại ra lệnh tuyển luôn cả phụ nữ làm dân đinh32 . Sang tháng 2 năm đó, Xử La Khả Hãn của Tây Đột Quyết cũng thần phục nhà Tùy. Cùng năm đó, Thánh Đức thái tử của Oa Quốc (Tức nước Nhật) sai sứ đến nhà Tùy yết kiến, trong thư tự xưng là thiên tử. Dạng Đế giận vì có người bắt chước danh hiệu thiên tử của mình, bèn ra lệnh cấm không được cho ông xem những bức thư lời lẽ như thế nữa33 .

Từ sau khi Nguyên Đức thái tử Dương Chiêu qua đời, Tề vương Dương Giản trở thành người con trai lớn nhất của Dạng Đế còn sống. Mấy năm sau, Dạng Đế phát hiện Dương Giản tư thông với chị dâu và sinh con, nghi lễ mỗi lần đi săn lại trọng hậu hơn hoàng đế, nên bắt đầu xa lánh Dương Giản. Sau đó, Dương Giản mời thầy bùa về nhà, làm phép định hãm hại ba người con của Dương Chiêu. Dạng Đế hay tin, rất giận, bèn giết hết tất cả bọn pháp sư và người chị dâu của Dương Giản là Nguyên thị, nhưng ông vẫn giữ lại tước vị cho Dương Giản, giáng chức Hợp Thủy lệnh.

Tháng 7 năm 608, Dạng Đế ra lệnh cho hơn 200.000 đinh nam tiếp tục xây Trường Thành về từ Du Cốc phía đông. Cùng năm đó, Bùi Củ hợp quân với Thiết Lặc công đánh Thổ Dục Hồn, đại phá được. Khả hãn của Thổ Dục Hồn là Phục Doãn chạy về phía đông, sai sứ đến nhà Tùy xin hàng phục và cầu cứu. Dạng Đế lệnh An Đức vương Dương Hùng và Hứa quốc công Vũ Văn Thuật đến Kiêu Hà cứu Thiết Lặc. Thuật kéo binh tới thành Lâm Khương, Thổ Dục Hồn phải rút quân về tây. Vũ Văn Thuật đuổi theo, lấy hai thành Bạt Mạn, Xích Thủy, chém 3000 người, bắt 200 vương công Thổ Dục Hồn và 4000 đàn bà con gái đem về. Cùng năm 608, Dạng Đế sai Tiết Thế Hùng đưa quân hợp với Đông Đột Quyết tiến đánh nước Y Ngô. Nhưng cuối cùng Khải Dân không đến hội quân, do đó quân Y Ngô chủ quan vì nghĩ một mình quân Tùy không làm được gì. Văn Thế Hùng tuy một mình dẫn quân nhưng lại đánh bại được Y Ngô, buộc Y Ngô thần phục.

Tháng 3 năm 609, Tùy Dạng Đế lại đem quân công đánh Thổ Cốc Hồn. Không lâu sau, tiếp tục Hữu Truân Vệ tướng quân Trương Định Hòa đến tiếp ứng, Định Hòa khinh quân địch ít quân, không phòng bị đích thân lên núi tiến đánh, bị phục quân Thổ Cốc Hồn giết chết. Sang tháng 6, Dạng Đế sai Lương Mạc truy kích Thổ Cốc Hồn, cũng bị Phục Doãn giết chết. Cuối cùng, Vệ Úy khanh Lưu Quyền mới mượn đường Y Ngô, qua Thanh Hải và bắt sống hơn 1000 người, tiến đến tận thành Phục Sĩ. Sau khi Thổ Cốc Hồn binh bại, Dạng Đế lập con của Phục Doãn là Thuận, vốn làm con tin ở Tùy làm Khả hãn để thay thế, nhưng bị người Thổ Cốc Hồn ngăn trở.

Gả Công chúa, giết lương thần

Tháng 1 năm 609, Tùy Dạng Đế đổi tên Đông Kinh (tức Lạc Dương) thành Đông Đô. Cũng trong dịp đó, Khả hãn Khải Dân đến triều yết Tùy Dạng Đế. Dạng Đế ban thưởng nhiều vàng bạc cho Khải Dân, sau đó ông trở về Tây Đô và tới nơi vào tháng 2 cùng năm. Tháng 3, Tùy Dạng Đế lại tuần du về phía tây, đến tháng 4 cùng năm thì ra Lâm Tân Quan, ra Hoàng Hà, rồi tổ chức lễ săn bắn ở núi Bạt Diên.

Cuối năm 609, Khải Dân qua đời, con là Đốt Cát lên nối ngôi, tức Khả Hãn Thủy Tất. Thủy Tất dâng biểu xin lấy một người công chúa triều Tùy. Dạng Đế tìm người trong tôn thất là Công chúa Nghĩa Thành, gả cho Thủy Tất.

Nội sử thị lang Tiết Đạo có tài văn học, cuối thời Tùy Văn Đế được phong Tương Châu tổng quản. Đến khi Dạng Đế lên ngôi, phong làm Bí thư giám. Tuy nhiên ông lại ghen ghét tài học của Tiết Đạo, sau đó lại nghe chuyện Đạo tỏ thái độ kính trọng với Cao Quýnh vốn đã bị ông giết, nên vô cùng tức giận, bèn nghe lời Bùi Uẩn, ra lệnh cho Tiết Đạo phải thắt cổ, vợ con dời ra biên cương. Người trong nước nghe tin đó đều đau lòng32 .

Chinh phạt Lưu Cầu, Tây Đột Quyết

Tháng 2 năm 610, Tùy Dạng Đế sai Chu Khoan đến phủ dụ nước Lưu Cầu34 nhưng bị Lưu Cầu cự tuyệt. Dạng Đế tức giận, sai Trần Lăng và Trấn Chu đem vạn quân quân thảo phạt Lưu Cầu, xuất phát từ Nghĩa An, Phiếm Hải, sang tháng sau đã tiến vào lãnh thổ Lưu Cầu. Quốc vương Lưu Cầu là Kiệt Thích đem quân cự chiến, bị quân Tùy đánh bại và giết chết35 . Trần Lăng tiến vào quốc đô Lưu Cầu, bắt hơn vạn người đem về Trung Quốc. Sau trận này, Trần Lăng được Dạng Đế phong làm Hữu Quang lộc đại phu.

Tháng 3 năm 610, Tùy Dạng Đế một lần nữa đến tuần du Giang Đô. Ngự sử đại phu Trương Hành vốn là người có công trong việc đưa Dạng Đế lên ngôi, tuy nhiên đến đấy lại khuyên Dạng Đế nên bỏ bớt chính sách lạm dụng lao dịch, khiến Dạng Đế không bằng lòng. Sau đó Dạng Đế giao cho Dương Hành tu sửa hành cung Giang Đô. Giang Đô quận thừa Vương Thế Sung tố cáo Trương Hành ăn bớt vật tư. Dạng Đế bèn hạ lệnh phế Trương Hành làm thứ nhân, sau đó phong cho Vương Thế Sung làm Giang Đô cung gián, cai quản hành cung Giang Đô32 36 . Sau này, mỗi lần Dạng Đế đến Giang Đô, Thế Sung đều trang hoàng cung điện cực kỳ phung phí để tiếp đón, vì vậy Dạng Đế càng tín nhiệm Thế Sung.

Cũng năm 610, Hoàng môn thị lang Bùi Củ tâu với Tùy Dạng Đế việc nên thu phục nước Cao Câu Ly. Tùy Dạng Đế bèn sai Ngưu Hoằng tuyên chỉ, muốn vua Cao Câu Ly sang triều kiến, nhưng thấy Cao Câu Ly không tuân phục. Tháng 2 năm 611, Tùy Dạng Đế xuống chiếu thảo phạt Cao Câu Ly, chuẩn bị khoảng 300 thuyền chiến lớn. Tháng 4, ông tới Trác quận, ngự ở cung Lâm Sóc, rồi tuyển mộ 1 vạn thủy thủ của Giang Hoài, 3 vạn cung thủ, và ra lệnh cho dân Hà Nam, Hà Bắc làm phu đi theo đoàn quân. Quân chinh phạt bị thúc ép tiến nhanh, ngày đi đêm không nghỉ, rốt cục nhiều người chết dọc đường.

Năm 611, Tùy Dạng Đế hạ lệnh triệu Xử La Khả hãn của Tây Đột Quyết hội minh tại Đại Đẩu Bạt Cốc, nhưng Xử La không đến. Tùy Dạng Đế muốn làm suy yếu Tây Đột Quyết hơn nữa, bèn theo lời Bùi Củ, phong cho cháu nội Khã Hãn Đạt Đầu là Xạ Quỹ làm Khã Hãn để đối đầu với Xử La. Xạ Quỹ đem quân tiến công Xử La, Xử La đại bại, chạy về phía đông đến nước Cao Xương. Tùy Dạng Đế gây sức ép với vua Cao Xương là Khúc Bá Nhã, đồng thời ép Xử La phải đến chỗ mình triều kiến. Xử La buộc phải tuân theo, đến triều yết Dạng Đế vào tháng 12 cùng năm, tuy nhiên Dạng Đế ra lệnh giữ Xử La ở Trung Nguyên, không cho về nước. Mùa xuân năm 612, Tùy Dạng Đế phân chia Tây Đột Quyết thành nhiều phần, phong cho em Xử La là Khuyết Độ thống lĩnh hơn 1 vạn người, đóng ở Hội Ninh, Đặc Lặc Đại Nại ở Lâu Phiền...37

Trước đó, Dạng Đế điều dân phu vận chuyển lương thực cho cuộc chiến tranh với Cao Câu Ly đến hai trấn Lô Hà, Hoài Viễn. Tuy nhiên lúc này quân đội đã mệt mỏi và tổn thất quá nửa mặc dù còn chưa giao chiến, một số chết vì mệt mỏi và dịch bệnh, một số đào ngũ. Dạng Đế lại bắt ép các hộ dận phải cống lương thực cho quân đội theo đầu người, còn quan lại thì lại nhân đó thu thêm nhiều lương thực cho đầy túi riêng. Nhân dân phải chịu sưu cao thuế nặng của triều đình, tình cảnh ngày một bi đát hơn. Một số người bỏ nhà đi làm cướp. Lòng dân ngày một oán hận triều Tùy. Quần hùng nổi lên, trong đó nổi bật nhất trong thời kì này là nghĩa quân của Đậu Kiến Đức.

Chiến tranh với Cao Câu Ly lần 1

Ngày Nhâm Ngọ tháng 1 năm 612, đại quân nhà Tùy gồm 1.131.800 người, giả xưng là 2 triệu quân, lại thêm khoảng 2 triệu dân phu, bắt đầu tiến công vào Bình Nhưỡng. Tùy Dạng Đế cũng đích thân dẫn quân. Đội quân thứ nhất của nhà Tùy bắt đầu hành quân 960 dặm tới sát biên giới Cao Câu Ly. Ngày Quý Tị, Tùy Dạng Đế thúc quân tiến đến Liêu Thủy. Quân Cao Câu Ly tổ chức phòng thủ chặt chẽ, quân Tùy không tiến lên nổi. Tả truân vệ đại tướng quân Mạch Thiết Trượng tự xin ra làm tiên phong, nhưng bị quân Cao Câu Ly đánh bại, quân Tùy chết trận rất nhiều. Mạnh Thiết Trượng và Sĩ Hùng, Đặng Xoa tử trận. Nhưng chỉ vài sau, khi hai quân giao chiến lần nữa, quân Tùy đánh bại được Cao Câu Ly một trận lớn ở Đông Ngạn, rồi thừa thắng tiến sang Liêu Đông38 . Ở những nơi đã chiếm được, Dạng Đế sai Vệ Văn Thắng và Lưu Sĩ Long đặt ra quận, huyện.

Các tướng nhà Tùy muốn tiến vào phía đông, tuy nhiên Dạng Đế lại bất ngờ ra lệnh rằng bất kì kế hoạch tiến quân nào cũng phải được sự đồng ý của ông trước khi thi hành. Trong khi đó, Thành Liêu Đông bị vây hãm, quân Cao Câu Ly ở đó xuất chiến bất lợi phải cố thủ, người trong thành muốn xin hàng. Các tướng do nhớ đến lời dặn của Tùy Dạng Đế nên đình chiến mà trở về báo cáo với ông, người trong thành nhân đó tổ chức lại việc phòng bị. Do đó quân Tùy không thể công hạ được.

Các thành của Cao Câu Ly cũng phòng thủ vững chắc, Hữu vệ đại tướng quân [[Lai Hộ Nhi]] suất thủy quân Giang, Hoài tiến lên hơn trăm dặm, đến cách Bình Nhưỡng 10 dặm và phá được quân Cao Câu Ly. Hộ muốn thừa thắng tiến vào trong thành, Phó tổng quản Chu Pháp Thượng ngăn lại, cho rằng cần thông báo cho vua biết trước. Hộ không nghe, đem 4 vạn quân phá thành Bình Nhưỡng, nhưng bị quân Cao Câu Ly đánh cho tan tác, phải rút về Hải Phố.

Trong khi đó Vũ Văn Thuật, Ô Trọng Văn, Kinh Nguyên Hằng, Tiết Thế Hùng cũng từ các đạo Phù Dư, Nhạc Lãng, Liêu Đông và Ốc Tự... tiến lên. Vũ Văn Thuật từ hai trấn Lô Hà, Ninh Viễn tiến vào Bình Nhưỡng, nhưng giữa đường hết lương phải rút về, bị quân Cao Câu Ly tiến công, toàn quân tử trận vô số. Trong lúc đó, quân Cao Câu Ly dùng kế giả hàng, bất ngờ tập kích vào hậu quân, giết Tân Thế Hùng. Nhiều cánh quân khác cũng bị quân Cao Câu Ly tiêu diệt gần hết, chỉ còn cánh của Vệ Văn Thắng không bị thiệt hại. Hơn 35 vạn quân Tùy tấn công Liêu Đông đến khi về chỉ còn 2700 người. Tùy Dạng Đế giận lắm, bắt giam Vũ Văn Thuật rồi lui binh. Chiến dịch tiến công Cao Câu Ly lần đó hoàn toàn thất bại.

Tháng 11 năm 612, Tùy Dạng Đế xử phạt các tướng thất bại trong trận đánh Cao Câu Ly, riêng Vũ Văn Thuật thì không xử phạt thêm hình phạt nào nữa, sang tháng 2 năm sau lại phục chức. Tháng 12, thấy Trương Hành thường tỏ ra oán vọng việc bị làm tội, ông bèn ra lệnh giết chết39 .

Chiến tranh với Cao Câu Ly lần 2

Đầu năm 613, Tùy Dạng Đế phong cho người cháu nội là Đại vương Dương Hựu, con trai thứ ba của Nguyên Đức thái tử Dương Chiêu làm lưu thủ Trường An, phái Hình bộ thượng thư Vệ Văn Thăng phụ tá Dương Hựu40 .

Tháng 2 năm 613, Tùy Dạng Đế bàn với các đại thần dự định tiến công Cao Câu Ly lần nữa để phục thù. Trong năm này, số cuộc khởi nghĩa trong nước tăng lên nhanh chóng. Ở Tế Âm có Mạnh Hải công khởi nghĩa, ở Tề quận41 có Vương Bạc, Mạnh Nhượng, quận Bắc Hải có Quách Phương Dự, quận Thanh Hà có Trương Kim Xưng, quận Bình Nguyên có Hác Hiếu Đức, ngoài ra còn Cát Khiêm ở Hà Gian, Tôn Tuyên Nhã của Bột Hải, người nào cũng có hơn vạn quân, nhiều thì hơn 10 vạn, nhà Tùy bắt đầu lâm vào cảnh rối loạn, trong khi con trai Dương Tố là Sở quốc công Dương Huyền Cảm cũng đã có ý định nổi dậy. Mấy ngày sau, Dạng Đế lại đến Liêu Đông, sai Việt vương Dương Đồng (cũng là con của Dương Chiêu) lưu thủ Lạc Dương.

Tháng 4, Dạng Đế đến đất Liêu, sau đó ông phái Vũ Văn Thuật và Dương Nghĩa Thần chuẩn bị tấn công Bình Nhưỡng, Vương Nhân Cung từ Phù Dư, tiến đến Tân Thành, quân Cao Câu Ly cố sức chống giữ ở đó. Dạng Đế lại sai các tướng gấp rút tấn công Liêu Đông, nhưng quân Cao Câu Ly phòng thủ kiên cố, kềm chân quân Tùy hơn 20 ngày, giết được nhiều binh lính nhà Tùy. Thừa lúc Tùy Dạng Đế tập trung sức lực cho chiến trường Cao Câu Ly, con trai Dương Tố là Dương Huyền Cảm, vốn được Dạng Đế giao cho đốc vận ở Lê Dương, đã nhân cơ hội nổi dậy ở gần Lạc Dương42 43 . Quân của Huyền Cảm đánh thắng quân Tùy nhiều trận, sắp chiếm được Đông đô. Dạng Đế đang ở Liêu Đông, nghe tin hoảng sợ, bèn dẫn quân về, sai Vũ Văn Thuật và Khuất Đột Thông suất quân đánh dẹp Huyền Cảm, đồng thời quật mộ của Dương Tố để trị tội. Quân Cao Câu Ly thừa cơ truy kích vào hậu quân Tùy, giết hơn mấy nghìn người. Sau, quân Tùy đánh dẹp được Dương Huyền Cảm. Dạng Đế ra lệnh cho quân sĩ tự chia tiền bạc cướp được, do đó tham quan thừa cơ cướp bóc.

Chiến tranh với Cao Câu Ly lần 3

Từ năm 613, các thế lực phản loạn nổi lên như ong. Trong năm 614, triều Tùy chỉ vừa trấn áp vài thế lực thì các thế lực mới nổi lên lại mạnh hơn trước. Thủ lĩnh phản quân cũng bắt đầu tiếm hiệu xưng vương hay xưng đế, miền bắc Trung Nguyên bắt đầu chìm trong nội loạn. Trong khi đó Tùy Dạng Đế lại muốn tiến công Cao Câu Ly một lần nữa. Tháng 3, ông đến Trác quận, tháng 4 tới Bắc Bình và tháng 7 tới trấn Hoài Viễn. Trung Nguyên chìm trong nội loạn, việc trưng binh thảo phạt của Tùy triều gặp nhiều khó khăn, nhiều binh sĩ đào ngũ. Dạng Đế cử Lại Hộ tiến đánh Xa Thành, đánh bại được quân Cao Câu Ly, sau đó tiến tới Bình Nhưỡng, vua Cao Câu Ly hoảng sợ, dâng biểu tạ tội. Dạng Đế vui mừng, muốn rút quân về. Lại Hộ tuy không đồng tình những cũng đành nghe theo lệnh ông.

Tháng 8 năm 614, Dương Đế từ trấn Ninh Viễn trở về và sang tháng 10 thì tới Đông Đô42 . Ông muốn triệu vua Cao Câu Ly vào triều kiến, nhưng vua Cao Câu Ly không chịu đi, Dạng Đế tức giận, muốn đánh Cao Câu Ly lần thứ tư, nhưng cuối cùng không ra quân.

Nguy khốn ở mạn bắc

Tháng 1 năm 615, Tùy Dạng Đế phân Bí thư tỉnh thành 20 viện, sau đó tự phong cho mình làm Tổng quản Dương châu. Tháng 8 cùng năm, Dạng Đế và Tiêu Hậu đến tuần thị miền bắc. Trước kia, Bùi Củ muốn làm suy yếu Đông Đột Quyết nên hiến kế lập em Khả hãn Thủy Tất là Sất Cát làm Khả hãn ở phía nam để phân chia Đông Đột Quyết làm hai nửa. Tuy Sất Cát không dám nhận, nhưng cũng do đó mà Thủy Tất oán hận nhà Tùy, nên muốn nhân lúc Dạng Đế ở phía bắc mà tập kích bắt sống ông, bèn tập hợp 10 vạn quân để chuẩn bị. Việc này bị công chúa Nghĩa Thành biết được.

Khi Dạng Đế, Tiêu Hậu và Triệu vương Dương Cảo đến Nhạn Môn thì bị quân Đột Quyết bao vây. Trong thành Nhạn Môn lúc đó chỉ có 15 vạn người, thiếu lương trong hai tuần. 41 thành ở Nhạn Môn bị Đông Đột Quyết lấy hết 39, chỉ còn Nhạn Môn và Quách thành chưa bị hạ. Thủy Tất lại bao vây Nhạn Môn gấp rất. Dạng Đế hoảng sợ tột độ, chỉ còn biết ôm Triệu vương Cảo mà khóc. Sau đó ông nghe lời em trai hoàng hậu là Tiêu Vũ và Tô Uy nên rút hết quân khỏi Cao Câu Ly mà tập trung quân lên phía bắc hộ giá cho ông. Lại sai sứ đến cầu cứu công chúa Nghĩa Thành. Nghĩa Thành bèn nói dối với Thủy Tất là ở phía bắc có biến. Vì thế, Thủy Tất bãi binh44 45 , Dạng Đế thoát khỏi vòng vây và còn bắt khoảng 2000 người Đột Quyết mang về.

Chết ở Giang Đô

Đi đến Giang Đô

Năm 615, trong nước xuất hiện lời sấm truyền Lý thị đương vương. Tùy Dạng Đế lo sợ, nghi ngờ Lý Mẫn, con rể công chúa Dương Lệ Hoa chị mình46 , bèn mượn tay Vũ Văn Nga Anh, con gái Dương Lệ Hoa và là vợ Lý Mẫn, tố cáo Lý Mẫn làm phản, sau đó hạ lệnh giết chết cả nhà Lý Mẫn. Mấy tháng sau, ông sai bỏ thuốc độc hại chết Nga Anh.

Sang năm 616, miền bắc Trung Quốc nội loạn dâng cao. Các thành nhà Tùy liên tiếp bị các thủ lĩnh khởi nghĩa đánh bại, nhà Tùy tiến gần đến bờ vực của sự diệt vong. Trước đó vào cuối năm 615, khi Dạng Đế thoát khỏi vòng vây của Thủy Tất, đã trở về đóng ở Đông Đô Lạc Dương, cự tuyệt lời khuyên của Tô Uy rằng ông nên về Trường An. Đến tháng 4 năm 616, Dạng Đế hỏi quần thần về tình hình khởi nghĩa trong nước, Vũ Văn Thuật trả lời rằng còn rất ít cuộc khởi nghĩa, phần lớn đã bị dập tắt rồi. Ông lại hỏi Tô Uy, Uy trả lời đại họa đã đến gần47 . Dạng Đế không hài lòng. Sang tháng 5, ông nghe lời gièm pha cho rằng lúc đánh Đột Quyết, Tô Uy nhận hối lộ. Dạng Đế muốn giết Tô Uy, nhưng cuối cùng phế làm thứ nhân.

Tháng 7 năm 616, Vũ Văn Thuật xin Tùy Dạng Đế đến tuần du Giang Đô. Dạng Đế đồng ý. Tướng quân Triệu Tài can ngăn rằng nếu ông rời khỏi miền bắc thì sẽ không thể trở về được nữa. Dạng Đế bãi chức Triệu Tài, sau đó đến Giang Đô. Các đại thần Nhâm Tông và Thôi Dâm cũng dâng thư can ngăn, bị Dạng Đế sai dùng trượng đánh chết. Sau đó, Dạng Đế đến Giang Đô, để Dương Đồng ở lại trấn thủ Lạc Dương. Ông làm hai câu thơ từ biệt cung nhân ở Lạc Dương

Ngã mộng Giang Đô hảo, chinh Liêu diệt ngẫu nhiên.

Rước giặc về nhà

Tháng sau Dạng Đế đến Giang Đô và ở đấy cho đến lúc bị giết. Đến tháng 10 năm 616, Vũ Văn Thuật bị bệnh. Trước kia hai con của Thuật là Vũ Văn Hóa Cập và Vũ Văn Trí Cập phạm tội, bị giam vào ngục, đến đây Thuật xin Dạng Đế tha cho họ. Dạng Đế nghe theo, tha cho anh em Hóa Cập và cho nối tước Hứa công, lại phong làm Hữu truân vệ tướng quân.

Từ năm 617, miền bắc bạo loạn khắp nơi, đường về kinh của Dạng Đế bị cắt đứt. Tùy Dạng Đế cho rằng mình đang được đội Kiêu Quả quân tinh nhuệ bảo vệ chắc chắn ở Giang Đô, nên không muốn trở về phương Bắc hỗn loạn, suy tính việc rời đô từ Trường An đến Đan Dương48 . Mùa đông năm đó, Đường Quốc công Lý Uyên ở Thái Nguyên chiếm được Trường An, lập Dương Hựu làm Hoàng đế, tức Tùy Cung Đế, tôn Dạng Đế, lúc đó đang ở Giang Đô, làm Thái thượng hoàng. Toàn bộ miền bắc Trung Quốc khi đó không còn nằm trong sự kiểm soát của Tùy Dạng Đế nữa.

Những ngày tháng cuối cùng

Mặc dù đến Giang Đô nhưng Dạng Đế vẫn tiếp tục lối sống hoang dâm xa xỉ như trước, cung nhân tuyển thêm mấy trăm người ở miền nam. Quận thừa Giang Đô là Triệu Nguyên Khải thường dâng các món ngon vật lạ lên Dạng Đế để lấy lòng; trong khi Dạng Đế, Tiêu Hậu và các mỹ nhân ngày đêm hoang lạc vui chơi, không thiết gì đến triều chính nữa.

Không lâu sau, ông đem ý định dời đô xuống nam nói với quần thần. Ngu Thế Cơ cho rằng đất Giang Đông ẩm thấp, ít lương thực, lòng dân xao động, không phải là chỗ để đóng đô, nên bị khép vào tội phỉ báng triều đình. Các đại thần khác hoảng sợ, thi nhau dâng biểu xin đế dời đô sang Đan Dương.

Sang năm 618, lương thực ở Giang Đô ngày một cạn, các binh sĩ Kiêu Quả phần lớn đều quê ở vùng Quan Trung nhớ nhà, muốn trở về, nhưng những người đào ngũ lúc trước đều bị giết, họ bèn họp nhau làm binh biến giết Dạng Đế đi. Các thủ lĩnh quân Kiêu Quả là Tư Mã Đức Kham. Bùi Kiền Thông, Nguyên Lễ, Dương Sĩ Lãm... liên kết với Vũ Văn Hóa Cập, hẹn nhau tạo phản.

Trong cung có người biết việc này, nói với Tiêu Hậu. Tiêu Hậu giấu không thông báo với Dạng Đế vì cho rằng vận nhà Tùy không thể cứu vãn được nữa. Khi có cung nhân báo việc này lên, đế sai giết chết người đó đi, rồi càng ăn chơi nhiều hơn trước.

Tháng 3 năm 618, quân Kiêu Quả chuẩn bị xong lực lượng, kéo đến bao vây cung điện của Dạng Đế. Tư Mã Đức Kham đem hơn vạn quân ở Đông Thành, hẹn nhau hễ thấy lửa nổi lên thì liên kết với quân ngoài thành cùng tiến vào cung. Lúc đó tình thế đã rất nguy kịch mà Dạng Đế vẫn thản nhiên.

Canh ba ngày Ất Mão (10) tháng 3 (10 tháng 4 năm 618), Tư Mã Đức Kham phóng lửa, quân nổi loạn ồ ạt xông vào nắm giữ cung điện vào ngày Bính Thìn hôm sau, tức 11 tháng 4. Tùy Dạng Đế nghe tin có biến loạn, muốn chạy sang Tây Các, bị Bùi Kiền Thông và Dương Nguyên Lễ tóm được. Giáo úy Lệnh Hồ Hành Đạt cầm siêu đao xông đến, ông hỏi

Ngươi muốn giết trẫm sao?

Hành Đạt nói

Thần không dám, chỉ mong Bệ hạ về phía tây (Trường An) mà thôi.

Dạng Đế tưởng họ không giết mình, nên đồng ý về Trường An. Tuy nhiên, Vũ Văn Hóa Cập tự xưng Thừa tướng, vào phủ đường. Dạng Đế bị ép phải đích thân ra đón. Ông biết Hóa Cập muốn hại mình, bèn hỏi

Trẫm có tội gì?

Hóa Cập sai kể tội Dạng Đế rằng

Bệ hạ bỏ bê tôn miếu, tuần du liên miên, bên ngoài loạn lạc, bên trong dâm loạn, sử đinh chết vì binh đao, đàn bà bị làm nhục, bốn phương ly tán, đạo tặc khắp nơi, chỉ nghe nịnh thần, bỏ bê trung lương, chẳng lẽ là không có tội sao.

Dạng Đế bảo

Trẫm quả có tội với bách tính, nhưng chư khanh là thần tử của trẫm, trẫm ban cơm áo vàng bạc rất hậu, có phải thế không. Sự việc hôm nay là do ai bày ra.

Đức Kham trả lời

Mọi người đều oán bệ hạ, đâu chỉ có một người.

Hóa Cập lại sai Phòng Đức Di lập tội trạng của Dạng Đế. Ông nói

Người chỉ là sĩ nhân mà dám làm việc này sao?.

Đức Di đành lui ra. Người con trai thứ của Dạng Đế là Triệu Vương Dương Cảo, năm đó 12 tuổi, được ông yêu thương, Hóa Cập bèn sai giết đi49 .

Sau đó lại định hạ sát Dạng Đế. Dạng Đế cho rằng thiên tử có cách chết của thiên tử, muốn dùng thuốc độc tự tử. Do trước đó Dạng Đế đã đoán biết có ngày này, nên luôn chuẩn bị độc dược trao cho cung nhân. Lúc đó cung nhân bỏ chạy hết, không tìm được thuốc độc50 . Lệnh Hồ hành Đạt bèn lấy giải lụa trắng siết cổ Dạng Đế. Năm đó, Tùy Dạng Đế được 49 tuổi, ở ngôi 14 năm.

Sau đó, quân Kiêu Quả giết chết em trai Dạng Đế là Thục Vương Dương Tú, người con thứ hai của ông là Tề Vương Dương Giản cùng hai con. Tôn thất nhà Tùy bị ở Giang Đô bị giết gần hết, chỉ còn Tần Vương Dương Hạo. Hóa Cập giả lệnh của Tiêu Hậu bèn tôn làm Vua, nhưng tự xưng Đại thừa tướng, nắm mọi quyền hành36 51 và giết nhiều quan lại trong triều. Không lâu sau ở Trường An, Lý Uyên ép Dương Hựu nhường ngôi, lập ra nhà Đường. Nhà Tùy bị diệt vong.

Tùy Dạng Đế bị giết, Tiêu Hậu và các cung nhân không có ai giúp việc làm tang, đành tìm tạm quan tài gỗ cho ông, sau đó gần một năm, khi Hóa Cập bị diệt, Dạng Đế mới được chôn cất, nhưng không theo đúng lễ nghi thiên tử. Mãi đến năm 622, khi nhà Đường cơ bản đã thống nhất Trung Quốc, Đường Cao Tổ mới cho cải táng ông theo lễ thiên tử, đặt thụy là Dạng Hoàng đế.

Đánh giá

Cậy tài kiêu ngạo

Dạng Đế có tài văn chương, có sáng tác thơ văn. Sau khi đọc Tùy Dạng Đế tập, Đường Thái Tông hết sức khen ngợi là "văn chương uyên bác", luận về thơ văn đúng là minh chúa kiểu vua Nghiêu Thuấn, rồi than thở về Dạng Đế rằng:

"Sao hành sự lại ngược lại như vậy?".

Ngụy Trưng nói:

"Dạng Đế dựa vào tài năng, kiêu căng tự tác, cho nên miệng thì nói lời Nghiêu Thuấn mà thân lại đi làm những hành vi của Kiệt Trụ".

Lời Ngụy Trưng thật là xác đáng. Dạng đế cho rằng mình không phải người thường, huênh hoang tự đắc, vốn không cho phép triều thần làm trái ý mình. Ông ta bảo rằng "tính không thích ai can gián". Ai đã có quan cao lộc hậu mà vẫn còn muốn can gián để nổi danh thì sẽ lấy mạng kẻ ấy. Tô Uy, Tiêu Vũ, Tiết Đạo Hành... do có lời khuyên can, nếu không mất đầu thì cũng mất chức. Ngay cả Trương Hành là thân tín cũng không thể may mắn thoát khỏi.

Dạng Đế không những không nhận lấy bài học, ngược lại càng dấn sâu thêm. Liên tiếp 2 năm tiếp theo, năm nào cũng điều quân ra trận, làm cho thiên hạ náo loạn, Trung Quốc hết sức khó khăn mệt nhọc. Sau đại chiến, tất có mất mùa, Năm Đại Nghiệp thứ 7 (611), lũ lụt hàng loạt ở Sơn Đông, Hà Nam, tiếp theo năm sau thì xảy ra đại hạn, người dân chết vài trăm ngàn người, họ phải ăn thịt lẫn nhau.

Tùy Dạng đế văn võ song toàn, khôi ngô tuấn tú, từ khi còn nhỏ đã nổi tiếng về thơ văn, năm 20 tuổi đã lập công diệt nhà Trần, ông ta vốn có thể làm một vị vua anh minh văn võ nổi danh, nhưng những gì ông ta đã làm thật không khác vết xe đổ của vua Trụ.

Nhà Tùy thống nhất Nam Bắc, là một vương triều đang lên, Tùy Văn Đế cởi mở tiếp thu can gián[cần dẫn nguồn], lập nên thời thịnh trị Khai Hoàng, quốc thái dân an. Tiếp đến là Dạng Đế thông minh cái thế, Vương triều Tùy lẽ ra phải tiến lên giàu mạnh, nhưng cuối cùng lại trở thành vị vua mất nước.

Hoang dâm vô độ

Lúc giành ngôi Thái tử, Dương Quảng do muốn lấy lòng Độc Cô Hoàng hậu nên vờ không thiết gì đến tửu sắc. Đến khi lên ngôi, Dạng Đế đã cho tìm bắt nhiều mỹ nữ về cung, sách lập 3 Phu nhân, 9 Tần, 27 Thế phụ, 81 Ngự thê, tổng cộng 120 người52 , và còn lấy hai phu nhân Trần, Thái của cha là Tùy Văn Đế. Ngoài ra, ông còn mắc chứng ấu dâm, thích giao cấu với các bé gái, bắt nhiều bé gái chưa đến 13 tuổi vào cung và sai Chu Hà chế ra một chiếc xe gọi là xe tùy ý. Trên chiếc xe này, Dạng Đế cho thiết kế rất nhiều chi tiết giúp giữ chặt tay chân của những thiếu nữ được đưa vào trong xe, khiến họ không thể cử động được, Dạng Đế dễ dàng trong việc lâm hạnh mà không vấp phải sự chống trả nào53 . Nhiều lần ông còn sai họa sĩ vẽ lại cảnh mình làm hoan lạc với các thiếu nữ rồi cho treo trong cung.

Xa xỉ lãng phí

Tùy Dạng Đế sống rất xa xỉ, thường đi tuần du, mỗi lần tuần du như vậy đều dùng nghi lễ cung đình, hành cung dịch trạm xây dựng khắp cả nước để riêng cho ông ở không biết bao nhiêu mà kể. Mỗi lần tuần du đến đâu, nếu thấy quan lại địa phương ở đó tiếp đón không bằng nghi lễ trong cung thì lập tức ghét bỏ, bãi chức, do đó các quan đều đua nhau chuẩn bị tốn kém khi nghe vua đến, do đó mọi gánh nặng đều đổ lên vai người dân. Đó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến bạo loạn cuối đời Tùy. Về việc này, Ngụy Trưng nhận xét trước mặt Đường Thái Tông rằng

Dương Quảng tuần du, yêu cầu quan quận huyện dâng thức ăn, lấy sự thịnh soạn làm tiêu chuẩn thưởng phạt, kết quả thiên hạ đại loạn.

Tranh cãi về việc giết cha

Sách Tùy thư, các quyển bản kỉ Văn Đế và Dạng Đế đều không nhắc một dòng nào về việc Dương Quảng giết cha. Sự việc này chỉ được nói đến ở Tùy thư, Hậu phi truyện, phần viết về Tuyên Hoa Phu nhân Trần thị. Sách Tư trị thông giám của Tư Mã Quang cũng chiếu theo đó mà dựng lên cốt truyện tương tự. Tuy nhiên, các sử gia ngày nay lên tiếng nghi ngờ thông tin này, cho rằng Văn Đế qua đời là do bệnh tật, không liên quan đến Dạng Đế và cho rằng câu chuyện bịa đặt vu khống Dương Quảng là do tác giả Triệu Nghị trong cuốn Đại Nghiệp lược ký viết vào đầu thời nhà Đường dựng lên, các sử gia biên soạn Tùy thư lấy theo đó mà chép vào tác phẩm.54

Nhân vật Dương Quảng còn xuất hiện trong các tiểu thuyết đời Minh Thanh như Thuyết Đường, Tùy Đường diễn nghĩa và đặc biệt là tiểu thuyết Tùy Dạng Đế diễm sử của tác gia Tề Đông Dã Nhân. Tác phẩm này miêu tả cuộc đời của Tùy Dạng Đế, và được gọi là diễm sử bởi vì theo tác giả Dạng Đế là ông vua phong lưu thiên cổ, nhất cử nhất động của ông, không việc gì mà không vui tai vui mắt, được người ta cho là kỳ diễm, nên gọi sách này là diễm sử55 .

Lăng mộ

Tháng 4 năm 2013, lăng mộ của Tùy Dạng Đế được khai phá ở Dương Châu.

Thân tộc

Gia đình

  • Cha: Tùy Văn Đế Dương Kiên (杨坚) (541–604)
  • Mẹ: Văn Hiến hoàng hậu Độc Cô Già La (獨孤皇后) (544–602)
  • Anh chị em:
    • Lạc Bình Công chúa Dương Lệ Hoa (楊麗華) (561–609), Hoàng hậu Bắc Chu Tuyên Đế
    • Phòng Lăng Vương Dương Dũng (房陵王 楊勇) (568–604)
    • Tần Hiếu Vương Dương Tuấn (秦孝王 楊俊) (571–600), cha của Dương Hạo
    • Lan Lăng công chúa (蘭陵公主) (573–604), con thứ năm của Tùy Văn Đế, tự A Ngũ (阿五)
    • Thục Vương Dương Tú (蜀王 楊秀) (573–618)
    • Hán Vương Dương Lượng (汉王 楊諒) (575–605)
    • Tương Quốc công chúa (襄国公主) (?–?), lấy Lý Trường Nhã (李长雅)56
    • Quảng Bình công chúa (廣平公主) (?–?), lấy Vũ Văn Tĩnh Lễ (宇文靜禮)
    • Nghĩa Phong công chúa (义丰公主) (?–?), lấy Liễu Cấn (柳艮)57
  • Hậu phi
    • Dạng Mẫn Hoàng hậu Tiêu thị (煬愍皇后 蕭氏) (566?–648), con gái Lương Minh Đế.
    • Trần phi (陈妃) (?–?) (tấn phong 606), nguyên là Quảng Đức Công chúa (广德公主) nhà Trần, con gái Trần Hậu Chủ và Cao chiêu nghi (高昭仪).
    • Trần quý nhân (陈贵人) (tấn phong 606), còn được biết là Trần Trù (陳婤) hoặc Trần Nữ Trù (陈女婤), con gái thứ sáu của Trần Hậu Chủ.
    • Tiêu tần (萧嫔) (?–?), mẹ của Dương Cảo
    • Tuyên Hoa phu nhân Trần thị (宣華夫人 陳氏) (?–?), con gái của Trần Tuyên Đế, vốn là phi tử của Tùy Văn Đế
    • Dung Hoa phu nhân Thái thị (容华夫人 蔡氏) (?–?), vốn là phi tử của Tùy Văn Đế
    • Vương thị (王氏) (?–?), có thuyết cho là con của Vương Dụ (王裕) và Đồng An Công chúa (同安公主)– em gái cùng mẹ khác cha với Đường Cao Tổ– tức là cháu gọi cậu của Đường Cao Tổ.
    • Thôi thị (崔氏) (?–?), con gái của Đông Quận công Thôi Quân Xước (东郡公 崔君绰).
    • Doãn thị (尹氏) (?–?), sau trở thành Đức phi (德妃) của Đường Cao Tổ.
    • Trương thị (张氏) (?–?), sau trở thành Tiệp dư (婕妤) của Đường Cao Tổ.
    • Lục phẩm Ngự nữ Đường thị (六品御女 唐氏), mất năm Đại Nghiệp thứ 13 (617).
    • Thất phẩm Thái nữ Điền thị (七品采女 田氏), mất năm Đại Nghiệp thứ 10 (614).
    • Thất phẩm Thái nữ Điền thị (七品采女 田氏), mất năm Đại Nghiệp thứ 11 (615).
  • Con cái
    • Nguyên Đức Thái tử Dương Chiêu (楊昭) (584-606), được truy tôn là Tùy Thế Tông Hiếu Thành Đế
    • Tề Vương Dương Giản (杨暕) (585-618), bị Vũ Văn hóa Cập giết
    • Triệu Vương Dương Cảo (楊杲) (sinh 607-618), bị Vũ Văn hóa Cập giết
    • Một con trai chết sớm
    • Nam Dương công chúa (南陽公主) (586-630),58 gả cho Vũ Văn Sĩ Cập, sau nhà Tùy mất thì xuất gia tu hành
    • Dương phi (杨妃) (?–?), phi tử của Đường Thái Tông
    • Hoài Nam công chúa (淮南公主) (?–?), vợ của Đột Lợi khả hãn A-sử-na Thập-bát-bật (突利可汗 阿史那什钵苾) của Đông Đột Quyết, có thể là con của Tùy Dạng Đế
    • Nhiều con gái khác

Hậu duệ

Con cháu của Dương Chiêu

  • Yên Vương Dương Đàm (楊倓) (603-618), con Dương Chiêu với lương đễ họ Lưu,59 bị Vũ Văn hóa Cập giết
  • Hoàng thái chủ Dương Đồng (杨侗) (604-619), con Dương Chiêu với lương đễ họ Lưu,60 bị Vương Thế Sung giết
  • Tùy Cung Đế Dương Hựu (楊侑) (605-618), con Dương Chiêu với Vi phi (韦妃), mất sau khi thiện nhượng cho Đường công Lý Uyên

Con cháu của Dương Giản

  • Hai con trai lớn của Dương Giản, bị Vũ Văn hóa Cập giết năm 618
  • Dương Chính Đạo (杨政道) (sinh 618/619 - mất những năm 690), con trai thứ ba của Dương Giản, sau được nhà Đường phong chức Viên ngoại Tán kỵ thị lang (员外散骑侍郎)
    • Dương Sùng Lễ (杨崇礼) (?–?), giữ chức Thái phủ khanh (太府卿), Hộ bộ thượng thư (户部尚书)
      • Dương Thận Danh (杨慎名) (?-747), bị Đường Huyền Tông buộc tự sát cùng anh em
      • Dương Thận Căng (杨慎矜) (?-747), giữ chức Ngự sử trung thừa (御史中丞), cùng Dương Quốc Trung (楊國忠) và Lý Lâm Phủ (李林甫) hãm hại đại thần Vi Kiên (韋堅) và Hoàng Phủ Duy Minh (皇甫惟明), sau bị Đường Huyền Tông buộc tự sát cùng anh em
      • Dương Thận Dư (杨慎馀) (?-747), bị Đường Huyền Tông buộc tự sát cùng anh em
      • Một con gái, lấy Tân Mỗ (辛某)
        • Tân Cảnh Thấu (辛景凑) (?–?)
  • Một con gái, con của Dương Giản với Vi thị (韦氏)

Con cháu của Nam Dương công chúa

  • Vũ Văn Thiện Sư (宇文禅师) (?-619), con trai của Nam Dương công chúa và Vũ Văn Sĩ Cập (bị Đậu Kiến Đức giết)

Con cháu của Dương phi

  • Ngô Vương Lý Khác (吴王 李恪) (619-653), con trai thứ ba của Đường Thái Tông, lấy Dương thị, con gái của Dương Dự (杨誉), có một người anh em trai tên là Dương Sùng Kính (杨崇敬)
    • Thành Vương Lý Thiên Lý (成王 李千里) (645/646? - 708), tự Nhân (仁), lấy Mộ Dung Chân Như Hải (慕容真如海) (651-726), hậu duệ hoàng tộc Bắc Yên
      • Lý Hi (李禧) (?–?), Thiên Thủy quận vương (天水郡王)
    • Lý Vĩ (李玮) (647-642), truy phong Lãng Lăng quận vương (朗陵郡王), lấy Phùng thị, cháu chắt của Cảnh quốc công Phùng Áng (冯盎), hậu duệ người Nam Việt
      • Lý Tộ (李祚) (?–?), Lãng Lăng quận vương
      • Lý Huyền (李袨) (?–?), còn có tên Lý Du (李褕), Tự Thục vương (嗣蜀王)
    • Ngô vương Lý Côn (吴王 李琨) (?-702)
      • Lý Y (李祎) (?-743), Tín An quận vương (信安郡王), lấy Lữ thị (吕氏)
        • Lý Hoàn (李峘) (?–?), Triệu quốc công (赵国公)
        • Lý Dịch (李峄) (?–?)
        • Lý Hiện (李岘) (708-766), Lương quốc công (梁国公)
      • Lý Nhu (李襦) (?–?), Tất quốc công (毕国公)
      • Lý Đoạn (李褍) (?–?)
      • Lý Chi (李祗) (?–?), Tự Ngô vương (嗣吴王)
        • Lý Hỗ (李岵) (?–?)
        • Lý Nghiễn (李巘) (?–?), Tự Ngô vương
          • Lý Trụ (李宙) (?–?), Tự Ngô vương
      • Lý Khuê (李袿) (?–?)
    • Lý Ảnh (李璄) (?–?), Quy Chính quận vương (归政郡王)
      • Lý Quế (李襘) (?–?)
    • Lý thị (648-716), Tín An huyền chủ (信安县主), lấy Nguyên Tư Trung (元思忠), cháu tám đời của Thác Bạt Hoảng, hoàng tử Bắc Ngụy
      • Nguyên Thủ Nhất (元守一) (?–?), con của Nguyên Tư Trung
      • Nguyên Quán (元瓘) (?–?), con của Nguyên Tư Trung
      • Nguyên Khôi (元瓌) (?–?), con của Nguyên Tư Trung
    • Lý Hoa (李华) (650-715), Tuyên Thành huyền chủ (宣城县主)
  • Thục Vương Lý Âm (梁王 李愔) (?–?), con trai thứ năm của Đường Thái Tông
    • Thục Vương Lý Phan (梁王 李璠) (?-689)
    • Lý Trù (李畴) (?-689), Nghiễm Đô quận vương (广都郡王)
    • Lý Cẩn (李瑾) (?–?), Giang Lăng quận vương (江陵郡王)
    • Lý thị (?–?), Bảo An huyền chủ (宝安县主), lấy Thôi Tư Cổ (崔思古)
      • Thôi Tử Khản (崔子偘) (?–?), con của Thôi Tư Cổ, liễn lang (辇郎) của Đường Cao Tông

Con cháu của Hoài Nam công chúa

  • A-sử-na Hạ-la-cốt (阿史那賀邏鶻), con với A-sử-na Thập-bát-bật

Xem thêm

  • Tùy Văn Đế
  • Chính biến Thọ Nhân
  • Tiêu hoàng hậu
  • Vũ Văn Hóa Cập
  • Lý Uyên
  • Tùy Cung Đế
  • Dương Tố
  • Dương Dũng
  • Dương Huyền Cảm

Tham khảo

  • Bắc sử
  • Nam sử
  • Trần thư
  • Chu thư
  • Tùy thư
  • Tư trị thông giám
  • Thái bình ngự lãm

Chú thích

  1. ^ Nay thuộc địa phận tỉnh Dương Châu, Trung Quốc
  2. ^ Chu thư, quyển 16
  3. ^ Tùy thư, quyển 3
  4. ^ Bắc sử, quyển 10
  5. ^ Tư trị thông giám, quyển 175
  6. ^ Nay thuộc địa phận Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc
  7. ^ Nguyên bản Tùy thư, quyển 3 chép tên ông này là Hâm. Thái Bình ngự lãm chép là Thiều
  8. ^ Tùy thư, quyển 36
  9. ^ An Huy, Trung Quốc ngày nay
  10. ^ Trần thư, quyển 6
  11. ^ Nam sử, quyển 10
  12. ^ Tư trị thông giám, quyển 177
  13. ^ Tùy thư, quyển 53
  14. ^ a ă Tư trị thông giám, quyển 179
  15. ^ a ă Tùy thư, quyển 45
  16. ^ Nay thuộc địa phận Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc
  17. ^ Nay thuộc địa phận Hồ Bắc, Trung Quốc
  18. ^ Tùy thư, quyển 36
  19. ^ Do Độc Cô là người ủng hộ Dương Quảng thay anh là Dương Dũng làm thái tử
  20. ^ Tư trị thông giám, quyển 180
  21. ^ Bắc sử, quyển 71
  22. ^ Thiểm Tây, Trung Quốc hiện nay
  23. ^ Nay thuộc Khai Phong, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc
  24. ^ Thương Khâu, Hà Nam, Trung Quốc
  25. ^ Thuộc tỉnh An Huy ngày nay
  26. ^ Bắc sử, quyển 95
  27. ^ Đại Việt sử ký toàn thư, đời thuộc Tùy Đường
  28. ^ Liêu Ninh, Trung Quốc ngày nay
  29. ^ Tùy thư, quyển 3
  30. ^ nay là Hồn Hà ở ngoài Trường Thành, thuộc Nội Mông-tây bắc Sơn Tây, Trung Quốc
  31. ^ Tùy thư, quyển 41
  32. ^ a ă â Tư trị thông giám, quyển 181
  33. ^ Tùy thư, quyển 81
  34. ^ Nay thuộc lãnh thổ Nhật Bản
  35. ^ Bắc sử, quyển 94
  36. ^ a ă Tùy thư, quyển 85
  37. ^ Tư trị thông giám, quyển 181
  38. ^ Liêu Dương, Liêu Ninh, Trung Quốc ngày nay
  39. ^ Bắc sử, quyển 74
  40. ^ Tùy thư, quyển 5
  41. ^ Nay thuộc địa phận Tế Nam, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc
  42. ^ a ă Tư trị thông giám, quyển 182
  43. ^ Tùy thư, quyển 70
  44. ^ Tùy thư, quyển 4
  45. ^ Bắc sử, quyển 12
  46. ^ Lệ Hoa từng là hoàng hậu của Bắc Chu Tuyên Đế, sau đó được gả cho Vũ Văn Thuật
  47. ^ Tư trị thông giám, quyển 183
  48. ^ Nay thuộc Nam Kinh, Giang Tô, Trung Quốc
  49. ^ Tùy thư, quyển 59
  50. ^ Tư trị thông giám, quyển 185
  51. ^ Bắc sử, quyển 79
  52. ^ Những hoàng đế biến thái trong lịch sử Trung Quốc
  53. ^ Quái chiêu phòng the của các hoàng đế
  54. ^ Sự thật về hoàng đế dâm loạn nhất lịch sử Trung Hoa
  55. ^ Tùy Dạng Đế diễm sử qua bản dịch nghiêm túc và tài hoa của học giả Nguyễn Khuê
  56. ^ Ngụy, Nhan, Khổng, Trưởng-tôn (636). Liệt truyện 19 列传第十九, Vương Trường Thuật 王长述. Tùy thư, quyển 54.
  57. ^ 《全唐文补遗》(千唐志斋新藏)P89《大周故河东柳府君(惇)墓志铭并序》
  58. ^ Bá-dương (1977). Trung Quốc Đế vương Hoàng hậu Thân vương Công chúa Thế hệ lục 中國帝王皇后親王公主世系錄, quyển 2, trang 777.
  59. ^ Bà được biết đến là Đại Lưu lương đễ (大刘良娣) để phân biệt với mẹ của Dương Đồng
  60. ^ Bà được biết đến là Tiểu Lưu lương đễ (小劉良娣) để phân biệt với mẹ của Dương Đàm
Tùy Dạng Đế
Hoàng tộc họ Dương
Sinh: , năm 569 Mất: 11 tháng 3, năm 618
Tước hiệu
Tiền vị
Tùy Văn Đế
Hoàng đế nhà Tùy (miền tây)
604-617
Kế vị
Tùy Cung Đế
Hoàng đế nhà Tùy (miền đông)
604-618
Kế vị
Dương Đồng (Việt vương)
Hoàng đế nhà Tùy (quân kiêu quả)
604-618
Kế vị
Dương Hạo (Tần vương)
Hoàng đế Trung Hoa (Trung Hà Nam)
604-616
Kế vị
Lý Mật (Ngụy công)
Hoàng đế Trung Hoa (Sơn Đông)
604-617
Kế vị
Từ Viên Lãng (Lỗ vương)
Hoàng đế Trung Hoa (Giang Tây/Quảng Đông/Hải Nam)
604-617
Kế vị
Lâm Sĩ Hoằng (Sở đế)
Hoàng đế Trung Hoa (Tây Nội Mông Cổ/Bắc Thiểm Tây)
604-617
Kế vị
Lương Sư Đô (Lương đế)
Hoàng đế Trung Hoa (Bắc Sơn Tây)
604-617
Kế vị
Lưu Vũ Chu (Định Dương khả hãn)
Hoàng đế Trung Hoa (Hà Bắc)
604-617
Kế vị
Đậu Kiến Đức (Hạ vương)
Hoàng đế Trung Hoa (Đông Cam Túc)
604-617
Kế vị
Tiết Cử (Tần Vũ đế)
Hoàng đế Trung Hoa (Tây Cam Túc)
604-617
Kế vị
Lý Quỹ (Lương đế)
Hoàng đế Trung Hoa (Hồ Bắc/Hồ Nam/Quảng Tây/Bắc Việt Nam)
604-617
Kế vị
Tiêu Tiển (Lương đế)
Hoàng đế Trung Hoa (Chiết Giang)
604-618
Kế vị
Thẩm Pháp Hưng (Lương vương)
Hoàng đế Trung Hoa (Bắc Kinh)
604-618
Kế vị
Lý Uyên
Hoàng đế Trung Hoa (Bắc Hà Bắc)
604-618
Kế vị
Cao Khai Đạo (Yên vương)

(Nguồn: Wikipedia)