Dục Đức
育德
Vua Việt Nam (chi tiết...)
Hoàng đế Đại Nam
Trị vì 20 tháng 7 năm 1883 - 23 tháng 7 năm 1883
(0 năm, 3 ngày)
Tiền nhiệm Tự Đức
Kế nhiệm Hiệp Hòa
Thông tin chung
Thê thiếp Từ Minh Huệ hoàng hậu
Hậu duệ 19 người con, bao gồm 11 hoàng tử và 8 công chúa
Tên húy Nguyễn Phúc Ưng Ái
Nguyễn Phúc Ưng Chân (阮福膺禛)
Thụy hiệu Huệ hoàng đế (惠皇帝)
Miếu hiệu Cung Tông (恭宗)
Triều đại Nhà Nguyễn
Hoàng gia ca Đăng đàn cung
Thân phụ Nguyễn Phúc Hồng Y
Thân mẫu Trần Thị Nga
Sinh 23 tháng 2, 1852
Huế, Đại Nam
Mất 6 tháng 10, 1883 (31 tuổi)
Huế, Đại Nam
An táng An Lăng (安陵)

Dục Đức (chữ Hán: 育德, 23 tháng 2 năm 1852 – 6 tháng 10 năm 1883), tên thật là Nguyễn Phúc Ưng Ái, sau đổi thành Nguyễn Phúc Ưng Chân (阮福膺禛), là vị Hoàng đế thứ năm của triều đại nhà Nguyễn. Ông lên ngôi vua ngày 19 tháng 7 năm 18831 , nhưng tại vị chỉ được ba ngày 2 , được truy tôn miếu hiệu là Nguyễn Cung Tông (阮恭宗).

Thân thế

Dục Đức sinh ngày 23 tháng 2 năm 1852 tại Huế. Có nguồn ghi ông sinh 4 tháng 1 năm Quý Sửu (tức 11 tháng 2 năm 1853). Ông là con thứ hai của Thoại Thái vương Nguyễn Phúc Hồng Y và bà Trần Thị Nga, có tự là Ưng Ái(膺?) (sử không lưu lại húy).

Năm 1869, 17 tuổi, ông được vua Tự Đức chọn làm con nuôi (vì lúc nhỏ bị bệnh đậu mùa nên vua Tự Đức không có con)3 và ban tên tự Ưng Chân (膺禛), đồng thời cho ra ở Dục Đức Đường (育德堂) và giao cho Hoàng quý phi Vũ Thị Duyên trông nom dạy bảo. Năm 1883, ông được phong làm Thụy Quốc công (瑞國公).

Sử sách còn nêu nguyên do ông phải đổi tên vì Nguyễn Phúc Hồng Y sinh ra ông, tên Ái không có bộ thị, nên Tự Đức nhận ông làm con, đổi là Nguyễn Phúc Ưng Chân, tên này có bộ thị (xem thêm bài Đế hệ thi).

Tại vị chỉ được ba ngày

Tự Đức mất để di chiếu truyền ngôi cho Ưng Chân, nhưng trong di chiếu có đoạn viết: "... Nhưng vì có tật ở mắt nên hành vi mờ ám sợ sau này thiếu sáng suốt, tính lại hiếu dâm cũng là điều chẳng tốt chưa chắc đã đảm đương được việc lớn. Nước có vua lớn tuổi là điều may cho xã tắc, nếu bỏ đi thì biết làm sao đây." Các quan Phụ chính Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn TườngTôn Thất Thuyết dâng sớ lên vua Tự Đức xin bỏ mấy đoạn có liên quan đến tính nết xấu của tự quân và câu "không chắc đảm đương nổi việc lớn" nhưng vua Tự Đức từ chối.

Thọ lãnh di chiếu của Tự Đức, Ưng Chân lên ngôi kế vị ngày 19 tháng 7 năm 18831 . Lúc làm lễ lên ngôi, Ưng Chân đã cho đọc lướt đoạn này. Hai Phụ chính Đại thần là Tôn Thất ThuyếtNguyễn Văn Tường bèn dâng lên Hoàng thái hậu Từ Dụ tờ hạch tội buộc cho vua Dục Đức bốn tội lớn:

  • Muốn sửa di chiếu của vua cha: Ở đây nhà vua là con nuôi của Tự Đức, coi Tự Đức là "Dưỡng phụ" chứ không phải "phụ hoàng". Nhưng Tự Đức đã có di chiếu, Dục Đức lại coi Tự Đức như vua cha của mình. Tự Đức mất để lại di chiếu. Dục Đức thấy di chiếu còn thừa một đoạn nên cắt bớt đoạn đó.
  • Có đại tang mà mặc áo màu: Ở đây là lúc Tự Đức mất đi, các quan mặc áo tang để đi tang lễ Tự Đức. Dục Đức khi có tang lễ lại mặc áo màu, cởi áo long bào ra để an táng Tự Đức.
  • Tự tiện đưa một giáo sĩ vào Hoàng thành: Ở đây muốn nói Dục Đức nghe tin có một giáo sĩ, sai người đưa giáo sĩ ấy vào. Từ Dụ thấy vậy kinh sợ, nhưng Dục Đức lệnh giáo sĩ phải ở lại.
  • Thông dâm với nhiều cung nữ của vua cha: Ở đây ý nói Tự Đức có 300 cung nữ.

Sau khi nhận được sự đồng ý của Hoàng thái hậu Từ Dụ và Hoàng quý phi Vũ Thị Duyên, hai quan Phụ chính liền ra chỉ phế truất ông vào ngày 23 tháng 7 năm 18834 ) và giam vua Dục Đức ở Dục Đức Đường, rồi Thái Y Viện, và cuối cùng là Ngục thất5 trong Kinh thành Huế. Ở đây, nhà vua bị bỏ đói cho đến chết 6 . Vua Dục Đức mất ngày 6 tháng 10 năm 1883 7 .

Vì chỉ làm vua được mấy ngày chưa kịp đặt niên hiệu, Dục Đức chỉ là tên gọi nơi ở Dục Đức Đường.

Năm 1892, hoàng đế Thành Thái, là con vua Dục Đức đã truy tôn cha mình là Cung Huệ Hoàng Đế (恭惠皇帝). Lăng của Dục Đức là An Lăng, tại làng An Cựu, xã Thủy Bằng, thị xã Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên. Năm 1901, Vua Thành Thái truy thụy cha mình là Khoan nhân Duệ triết Tĩnh minh Huệ hoàng đế (寬仁睿哲靜明惠皇帝), Miếu hiệu là Cung Tông (恭宗).8

Gia quyến

Vợ

  • Từ Minh Huệ hoàng hậu Phan Thị Điều (8 tháng 9 năm 1855 - 27 tháng 12 năm 1906), con gái của Phù Quốc công Phan Đình Bình, người Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Sau khi mất, bà được chôn ở An Lăng, bên bờ sông An Cựu; huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên.

Con cái

Vua Dục Đức có 19 con, gồm 11 con trai và tám con gái.

Con trai

  1. Nguyễn Phúc Bửu Cương [阮福寶岡; 22 tháng 12 năm 1871 - 7 tháng 10 năm 1876].
  2. Nguyễn Phúc Bửu Trĩ [阮福寶峙; 2 tháng 9 năm 1872 - 1 tháng 10 năm 1878].
  3. Nguyễn Phúc Bửu Mỹ [阮福寶嵋; 24 tháng 11 năm 1874 - 2 tháng 9 năm 1877].
  4. Nguyễn Phúc Bửu Nga [阮福寶峨; 8 tháng 9 năm 1875 - 14 tháng 11 năm 1876].
  5. Nguyễn Phúc Bửu Nghi [阮福寶宜; 6 tháng 11 năm 1876 - 9 tháng 4 năm 1877].
  6. Nguyễn Phúc Bửu Côn [阮福寶崑; 22 tháng 11 năm 1877 - 21 tháng 11 năm 1880].
  7. Hoài Trạch công Nguyễn Phúc Bửu Lân [懷澤公 阮福寶嶙].
  8. Nguyễn Phúc Bửu Chuẩn [阮福寶?; 9 tháng 2 năm 1882 - 13 tháng 12 năm 1884].
  9. Tuyên Hóa vương Nguyễn Phúc Bửu Tán [宣化王 阮福寶巑; 1882 - 8 tháng 5 năm 1941], là ông nội của hai nhạc sĩ Bảo Chấn và Bảo Phúc9 10 .
  10. Hoài Ân vương Nguyễn Phúc Bửu Liêm [懷恩王 阮福寶嵰; 1884 - ?].
  11. Mỹ Hóa công Nguyễn Phúc Bửu Lỗi [美化公 阮福寶?; 19 tháng 4 năm 1884 - 20 tháng 5 năm 1902], có một con trai11

Con gái

  1. Mỹ Lương Trưởng công chúa Nguyễn Phúc Tôn Thụy [美良长公主阮福選隨; 1872 - 1917], con gái trưởng, tục xưng Đại công chúa nương nương (大公主娘娘) hay còn gọi là Bà chúa Nhất. Lấy Nguyễn Hỷ (阮繥), con trai Diên Lộc quận công Nguyễn Thân. Sinh ra Công nữ Nguyễn Thị Cẩm Hà, tức Mệ Bông.
  2. Phúc Lâm Công chúa Nguyễn Phúc Môn Gia[福林公主阮福閑家; ? - 1925]. Lấy Trương Quang Chử (張光楮), Cháu Tuy Thạnh quận công Trương Đăng Quế, con trai Phò Mã Đô Úy Trương Quang Trụ.
  3. Nguyễn Phúc Như Tâm.
  4. Nguyễn Phúc Thị Nghị.
  5. Nguyễn Phúc Học Giá.
  6. Nguyễn Phúc Mẫn Sự.
  7. Nguyễn Phúc Thông Lư.
  8. Tân Phong công chúa Nguyễn Phúc Chu Hoàn [新豐公主阮福珠環; 1883 - ?], tục xưng Bát công chúa nương nương (八公主娘娘) hay Bà chúa Tám. Lấy Nguyễn Hữu Khâm (阮有廞), con trai Vĩnh quốc công Nguyễn Hữu Độ12 . Có con là Công nữ Nguyễn Hữu Bích Tiên sau bà Tiên lấy Hoàng tùng đệ Nguyễn Phúc Vĩnh Cẩn 13 .

Chú thích

  1. ^ a ă Theo website Trung tâm bảo tồn di tích Cố đô Huế [1]. Có nguồn ghi là ngày 20 tháng 7
  2. ^ Theo Đại Nam chính biên liệt truyện (quyển 4), thì vua Dục Đức "nối ngôi mới được 5 ngày" (Nhà xuất bản Văn học, 2004, bản dịch: trang 86). Việt Nam sử lược (Trần Trọng Kim soạn. Nhà xuất bản Tân Việt, 1968, tr. 533) chép là "được 3 ngày".
  3. ^ Ngoài Nguyễn Phúc Ưng Chân (tức vua Dục Đức), vua Tự Đức còn nhân nuôi hai người cháu nữa, đó là Nguyễn Phúc Ưng Kỷ (về sau là vua Đồng Khánh) và Nguyễn Phúc Ưng Đăng (còn gọi là Dưỡng Thiện, về sau là vua Kiến Phúc).
  4. ^ Theo Phan Thuận An, Kiến trúc cố đô Huế. Nhà xuất bản Thuận Hóa, 1994, tr. 115.
  5. ^ Ngục thất (sau đổi tên là Khám đường) trong Kinh thành Huế là một cái nhà tù "đặc biệt" dành cho những người phạm "trọng tội", được thiết lập từ đầu triều Nguyễn. Khi ấy, Ngục thất nằm ở góc Tây Bắc trong Kinh thành Huế, trên một cái hồ lớn, thường gọi là hồ Khám. Toàn khu có bốn cái nhà. Một nhà dài lớn ở phía trước, dùng làm văn phòng và trại canh. Ba dãy nhà sau là trại giam. Tù nhân ở đây phần lớn là những tu sĩ đạo Thiên chúa không chấp hành luật lệ cấm đạo của các vua nhà Nguyễn. Tuy nhiên, những người tù nổi tiếng nhất lại là ba cái đầu lâu của Nguyễn Nhạc, Nguyễn HuệNguyễn Quang Toản. Sau trận Kinh thành Huế năm 1885, ba đầu lâu ấy mới thất lạc. Cho đến đời vua Thành Thái, thì Ngục thất không còn được sử dụng nữa. Nguyên do là vì cha ông là vua Dục Đức đã bị truất phế, tống ngục, và rồi chết đói tại đây. Ngày nay, trên nền Ngục thất xưa là trường Phổ thông cơ sở Tây Lộc, thuộc phường Tây Lộc, thành phố Huế. Nguồn tham khảo: Nguyễn Đắc Xuân, "Ngục thất" trong sách Hướng dẫn tham quan Kinh thành Huế. Nhà xuất bản Thuận Hóa, 1994, tr. 147-148.
  6. ^ Có một số tác giả viết như vậy, như ở đây: [2], [3]. Tuy nhiên, theo sử gia Phạm Văn Sơn, thì đang khi vua Dục Đức hết sức đau đớn vì đói khát, Tôn Thất ThuyếtNguyễn Văn Tường đã sai người giết vua bằng thuốc độc vì sợ để lâu sẽ sinh biến (Việt sử tân biên, quyển 5, tập thượng, 1962, tr. 386).
  7. ^ Theo Phạm Văn Sơn (sách đã dẫn, tr. 386) và Phan Thuận An (sách đã dẫn, tr. 115). Tuy nhiên, có nguồn ghi vua Dục Đức mất ngày 24 tháng 10 năm 1884, như website Trung tâm bảo tồn di tích Cố đô Huế [4], và ở đây [5].
  8. ^ Quốc sử quán triều Nguyễn (2012), Đại nam Thực lục Chính biên Đệ lục kỷ Phụ biên, Nhà xuất bản Văn Hóa - Văn Nghệ, 1024.Ngày Tân hợi (ngày 15), truy tiến tôn thụy cho Hoàng khảo Cung Huệ hoàng đế là Cung tông Khoan nhân Duệ triết Tĩnh minh Huệ hoàng đế.
  9. ^ Biệt phủ Tuyên Hóa Vương - quá khứ bị lãng quên
  10. ^ Décès du prince Buu-Toan
  11. ^ Phả hệ tộc Nguyễn Phúc của Christopher Buyers
  12. ^ [6]
  13. ^ “Nguyen Huu Bich Tien”. Truy cập 17 tháng 5 năm 2015. 

(Nguồn: Wikipedia)