Trần Hiến Tông 陳憲宗 | |
---|---|
Vua Việt Nam (chi tiết...) | |
Hoàng đế Đại Việt | |
Trị vì | 1329 - 1341 |
Tiền nhiệm | Trần Minh Tông |
Thái thượng hoàng | Chương Nghiêu Văn Triết Thái thượng hoàng đế |
Kế nhiệm | Trần Dụ Tông |
Thông tin chung | |
Thê thiếp | Hiển Trinh công chúa |
Tên húy | Trần Vượng (陳旺) |
Niên hiệu | Khai Hựu (開佑) |
Thụy hiệu | Thể Nguyên Ngự Cực Duệ Thánh Chí Hiếu Hoàng Đế (體元御極睿聖至孝皇帝) |
Miếu hiệu | Hiến Tông (憲宗) |
Triều đại | Nhà Trần |
Thân phụ | Trần Minh Tông |
Thân mẫu | Minh Từ hoàng thái phi |
Sinh | 17 tháng 5, 1319 |
Mất | 11 tháng 6, 1341 (22 tuổi) Quang Triều cung, Thăng Long |
An táng | An Lăng (安陵) |
Tôn giáo | Phật giáo |
Trần Hiến Tông (chữ Hán: 陳憲宗; 17 tháng 5, 1319 – 11 tháng 6, 1341), là vị Hoàng đế thứ sáu của triều đại nhà Trần trong lịch sử Việt Nam, trị vì trong 13 năm (1329 - 1341).
Hiến Tông tuy cai trị trên danh nghĩa, nhưng việc điều khiển triều chính đều do Thái thượng hoàng Trần Minh Tông xử lý. Trong thời gian này, Thượng hoàng dấy binh đi dẹp loạn Ngưu Hống ở Đà Giang, đánh quân Ai Lao xâm phạm bờ cõi.
Thân thế
Trần Hiến Tông tên húy là Trần Vượng (陳旺), là con trưởng của Trần Minh Tông, mẹ là Minh Từ hoàng thái phi Lê thị, người Giáp Sơn, là cô của Lê Quý Ly. Tuy là con đầu lòng của Minh Tông, nhưng do mẹ là phi tần nên xét về chính danh ông vẫn chỉ là con thứ.
Ngày 7 tháng 2, năm 1329, Hoàng đế Trần Minh Tông xuống chiếu phong Trần Vượng làm Hoàng thái tử.
Trị vì
Ngày 15 tháng 2, năm 1329, Minh Tông nhượng ngôi cho Thái tử, làm Thái thượng hoàng. Ông lên ngôi, tự xưng Triết Hoàng (哲皇), đặt niên hiệu là Khai Hựu (開佑). Ông lên ngôi còn nhỏ, quyền hành thực tế ở cả trong tay Thượng hoàng, cho nên tuy có trị vì 13 năm nhưng Trần Hiến Tông không được tự chủ việc gì cả.
Dưới triều Trần Hiến Tông, biên giới phía Bắc và phía Nam tương đối ổn định. Thời gian trị vì của Hiến Tông, nhà Trần không tổ chức khoa thi nào để chọn nhân tài. Vào năm Đinh Sửu (1337), có xuống chiếu cho các quan trong triều cũng như ngoài các lộ, hàng năm xét những thuộc viên do mình quản lý, người nào siêng năng cẩn thận thì giữ lại, còn người nào không làm được thì truất bỏ.
Từ năm 1333) đến năm 1338 chỉ trong vòng 6 năm, đã có nhiều thiên tai lớn xảy ra như lụt lội, bão gió, động đất. Vì vậy Trần Hiến Tông hạ lệnh cho các nơi lập kho lượng chứa thóc thuế để kịp thời cấp cho dân đói.
Về Văn hoá và một số ngành khoa học như thiên văn, lịch pháp, y học vào thời gian này cũng có những thành tựu đáng kể. Dưới triều Trần Hiến Tông có Hậu nghi đài lang, Thái sử cục lệnh là Đặng Lộ người huyện Sơn Minh (Ứng Hoà, Hà Nội) đã chế ra một dụng cụ xét nghiệm khí tượng gọi là Lung Linh nghi, khi khảo nghiệm không việc gì là không đúng.
Năm Khai Hựu thứ 13 (1341), ngày 11 tháng 6, ông qua đời, thọ 22 tuổi. Miếu hiệu là Hiến Tông (憲宗), thụy hiệu là Thể Nguyên Ngự Cực Duệ Thánh Chí Hiếu Hoàng Đế (體元御極睿聖至孝皇帝). Lăng của ông là An lăng (安陵).
Sau khi ông qua đời, Thượng hoàng Minh Tông chọn người con thứ của Hiến Từ hoàng hậu là Trần Hạo (陳暭), tức là Trần Dụ Tông.
Gia đình
- Cha: Trần Minh Tông.
- Mẹ sinh: Minh Từ hoàng thái phi Lê thị (明慈皇太妃黎氏; ? - 1365), người Giáp Sơn, Thanh Hóa.
- Mẹ đích: Hiến Từ Tuyên Thánh hoàng hậu Trần thị (憲慈宣聖皇后陳氏; ? - 1370), chính cung của Minh Tông hoàng đế, con gái Huệ Vũ đại vương Trần Quốc Chẩn. Hiến Tông tôn làm đích mẫu, một mực tôn kính.
- Anh em:
- Trần Phủ (陳暊), em ruột cùng mẹ, tức Trần Nghệ Tông.
- Vợ: Hiển Trinh công chúa (顯貞公主), con gái trưởng của Bình chương Huệ Túc vương Trần Đại Niên (1306 - 1360), sinh hạ được 1 công chúa.
Tham khảo
- Các triều đại Việt Nam, Quỳnh Cư và Đỗ Đức Hùng, Nhà xuất bản Thanh niên Hà Nội, In lần thứ sáu năm 2001.
- Đại Việt sử ký toàn thư
(Nguồn: Wikipedia)