Trần Phế Đế
昌符帝
Vua Việt Nam (chi tiết...)
Hoàng đế Đại Việt
Trị vì

13 tháng 5, 1377 – 6 tháng 12, 1388 (11 năm, 207 ngày)

Tiền nhiệm Trần Duệ Tông
Thái thượng hoàng Quang Hóa Anh Triết thái thượng hoàng đế
Kế nhiệm Trần Thuận Tông
Thông tin chung
Thê thiếp Quang Loan hoàng hậu
Tên húy Trần Hiện (陳晛) hoặc Trần Nhật Vĩ (陳日煒)
Niên hiệu Xương Phù (昌符)
Thụy hiệu Linh Đức đại vương
靈德大王
Triều đại Nhà Trần
Thân phụ Trần Duệ Tông
Thân mẫu Gia Từ hoàng hậu
Sinh 6 tháng 3, 1361
Thăng Long
Mất 6 tháng 12, 1388 (27 tuổi)
Thăng Long
Tôn giáo Phật giáo

Trần Phế Đế (chữ Hán: 陳廢帝, 6 tháng 3, 1361 - 6 tháng 12, 1388), còn gọi là Xương Phù Đế (昌符帝) hay Trần Giản Hoàng (陳簡皇), là vị hoàng đế thứ 10 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi từ năm 1377 đến khi bị phế vào năm 1388, tổng cộng hơn 10 năm trị vì.

Trong suốt thời gian trị vì, quyền lực đều rơi vào tay bác của ông là Thái thượng hoàng đế Trần Nghệ Tông, tục xưng Nghệ Hoàng, bên trong có sự thao túng của người em họ bên ngoại là Hồ Quý Ly. Chính vì lo ngại thế lực của Hồ Quý Ly, ông đã gầy dựng phe cánh chống đối và cuối cùng thất bại, bị Nghệ Hoàng ban chết.

Thân thế

Phế Đế tên thật là Trần Hiện (陳晛), là con thứ của Duệ Tông Khâm Hiếu hoàng đế, mẹ là Gia Từ hoàng hậu Lê thị, em gái của quyền thần khi đó là Lê Quý Ly. Ông gọi Trần Nghệ Tông là bác.

Sau khi Duệ Tông tử trận ở Chiêm Thành vào năm 1377, ông được Nghệ Hoàng đưa lên ngôi. Khi lên nối ngôi, ông mới 16 tuổi, mọi quyền hành vẫn do Nghệ Hoàng nắm giữ. Niên hiệu được cải thành Xương Phù (昌符), tự xưng làm Giản Hoàng (簡皇).

Sách sử nhà Minh gọi Trần Phế ĐếTrần Vĩ (陳煒 - Chen Wei) hoặc Trần Nhật Vĩ (陳日煒)4 .

Hoạ Chiêm Thành và nhà Minh

Chúa nước Chiêm Thành là Chế Bồng Nga nhân đà thắng lợi liên tục tiến đánh và cướp phá Đại Việt. Tháng 6 năm 1377, Chế Bồng Nga đem quân đánh thẳng vào Thăng Long. Thượng hoàng sai tướng giữ cửa Đại An. Quân Chiêm bèn đi theo cửa Thần Phì (thuộc Ninh Bình). Triều đình hốt hoảng bỏ kinh thành lánh nạn. Chế Bồng Nga vào Thăng Long cướp phá một chập rồi rút về.

Tháng 5 năm Mậu Ngọ (1378), Chế Bồng Nga lại sang đánh Nghệ An, rồi theo sông Đại Hoàng cướp phá Thăng Long một lần nữa. Thượng hoàng Nghệ Tông lại phong Đỗ Tử Bình làm Hành khiển và giao cầm quân nhưng chưa đánh đã tan.

Đến năm Canh Thân (1380) rồi năm Nhâm Tuất (1382), quân Chiêm lại tiến quân vào Đại Việt song bị đánh lui. Đến tháng 6 năm Quý Hợi (1383), Chiêm Thành lại đem quân đánh Đại Việt, tiến theo đường núi ra Bắc rồi bất ngờ đánh vào trấn Quảng Oai. Thượng hoàng Nghệ Tông hốt hoảng sai tướng Mật Ôn ra giữ ở Tam Kì nhưng Mật Ôn thua trận bị bắt sống. Thượng hoàng Nghệ Tông lại sai Nguyễn Đa Phương trấn thủ kinh thành còn mình và Giản Hoàng chạy sang Đông Ngàn. Có người học trò là Nguyễn Mộng Hoa khuyên Thượng hoàng ở lại kinh thành chống giặc nhưng Thượng hoàng vẫn đi. Quân Chiêm Thành tràn vào kinh thành Thăng Long lần nữa, đốt phá cướp bóc. Đến tháng 12 năm Quý Hợi (1388) quân Chiêm rút về, Thượng hoàng mới trở lại kinh sư. Sử sách chép lại rằng Thượng hoàng đã cho quân tải tiền đồng cất dấu vào núi Thiên Kiện (hay là núi Địa Cận) ở Hà Nam và chùa Khả Lãng ở Lạng Sơn đề phòng bị quân Chiêm cướp.

Năm Tân Dậu (1381), Giản Hoàng mở khoa thi Thái học sinh, song từ đó lại lựa chọn những người khỏe mạnh để gia nhập quân đội, việc làm kì lạ này không chỉ đi ngược với tiền triều mà còn làm mất lòng dân, nản lòng binh sĩ.

Nghe lời Đỗ Tử Bình, triều đình tiếp tục cho tăng sưu thế để cứu kho tàng trống rỗng vì chiến tranh, bắt mỗi suất đinh đóng 3 quan tiền thuế khiến cho nhân dân ngày càng cực khổ.

Mặt khác, ở phương Bắc, nhà Minh cũng dòm ngó Đại Việt, Minh Thái Tổ đòi Đại Việt cấp 5.000 thạch lương cho quân Minh ở Vân Nam. Nhà Trần phải biện bạch là đã sai chuyển vận sứ đem đi, nhưng vì lam chướng nhiều người bị chết nên thất thoát. Tháng 3 năm Ất Sửu (1385) nước Minh lại đòi cống nạp tăng nhân, do người phương Nam có tài dựng đạo tràng. Người Minh còn đòi cống nạp các loại quả như vải, nhãn, mít...5 và còn đòi cấp 50 con voi, mượn đường đánh Chiêm Thành. Tuy nhiên, Minh Thực Lục cho rằng nhà Trần sang triều cống quá nhiền lần, bắt buộc mỗi 3 năm mới được sang cống.6

Họa ngoại thích

Nghệ Hoàng quá tin dùng ngoại thích Hồ Quý Ly, giao cho Quý Ly nhiều quyền hành quá lớn. Quý Ly tìm cách phát triển thế lực riêng, nhưng Nghệ Hoàng vẫn không hề nghi ngại. Sau chiến thắng trước quân Chiêm năm 1380, Nghệ Hoàng cho Quý Ly làm Hải Tây Đô thống chế. Lúc đó, lòng các quan lại, tôn thất phần nhiều đã chán nản, rã rời, nhiều người biết trước Hồ Quý Ly sẽ cướp ngôi nhà Trần như Trần Nguyên Đán liền kết thông gia với họ Hồ, mong được phú quý và toàn mạng sau này.

Năm 1388, Giản Hoàng đế nhận rõ âm mưu của Quý Ly, bèn bàn với tâm phúc tìm cách trừ khử. Quý Ly biết chuyện bèn kêu van với Nghệ Hoàng: Cổ lai chỉ có bỏ cháu nuôi con, chứ chưa thấy ai bỏ con nuôi cháu bao giờ.[a]

Nghệ Hoàng nghe lời Quý Ly, khiển trách Giản Hoàng trẻ con, làm hại kẻ công thần nên giáng xuống làm Linh Đức vương và lập con nhỏ của mình là Chiêu Định Vương Trần Ngung lên ngôi, tức là Trần Thuận Tông. Sự việc cụ thể như sau:

Ngày 6 tháng 12 năm 1388, Thượng hoàng giả đi Yên Sinh, sai người gọi quan gia đến bàn việc nước, khi ông đến thì đem giam vào chùa Tư Phúc và tuyên chiếu: "Trước kia Duệ Tông đi tuần phương Nam không trở về, dùng con đích để nối ngôi là theo đạo đời xưa. Song quan gia từ khi lên ngôi đến giừ vẫn còn trẻ con lăm, giữ đức không thường, thân mật với bọn tiểu nhân, nghe bọn Lê Á Phụ, Lê Dữ Nghị dèm pha vu hàm người công thần, làm dao động xã tắc, nên giáng xuống làm Linh Đức đại vương. Song nhà nước không thể không có người đứng chủ, ngôi báu không thể bỏ không, nên đón Chiêu định vương vào nối đại thống. Bá cáo trong ngoài để mọi người đều biết".

Một số tướng lĩnh có ý đưa quân vào điện cứu Giản Hoàng, song ông lại chỉ viết hai chữ Giải giáp, có ý xuôi tay, bảo: "Không đựợc trái ý Thái Thượng hoàng". Một lúc sau ông bị Thượng hoàng ép thắt cổ chết ở phủ Thái Dương, các tướng tâm phúc đều bị sát hại.

Giản Hoàng mất khi 28 tuổi, ở ngôi 12 năm, được chôn ở núi An Bài.

Theo Minh thực lục, khoảng cuối tháng 12 năm 1388, Lê Nhất Nguyên (Li Yi-yuan - 黎一元) giết vua Trần Vĩ (tức Trần Phế Đế) rồi chôn ở phường Đại Dương ngoại thành Thăng Long. Lê Nhất Nguyên sau đó lập Trần Nhật Hỗn, con Trần Thúc Minh (陳叔明) lên thay. Nhất Nguyên còn có tên khác là Quý Ly (Ji-li - 季犛)1

Đánh giá

Sách Đại Việt Sử ký Toàn thư đánh giá Trần Phế Đế như sau:

Đỗ Tử Bình dối trá gây ra cái chết của Duệ Tông, Phế Đế không thẳng tay trị tội, lại cho phục chức lên địa vị cao trong triều; khi Bình chết lại truy tặng gia phong. Như vậy khiến gian thần nhởn nhơ không sợ phép nước, mặc ý dối trá không sợ bị trừng trị.

Đó là trường hợp của Đỗ Tử Bình. Với việc để cho Hồ Quý Ly lộng hành dẫn đến việc sụp đổ của nhà Trần, nếu quy hết trách nhiệm cho Phế Đế sẽ là thiếu khách quan, bởi sự o bế Quý Ly là do tay của Thượng hoàng Trần Nghệ Tông, mà từ xưa vua nhà Trần chưa từng vượt khỏi tay thượng hoàng, dù là vua có cá tính mạnh mẽ như Duệ Tông cha của Phế Đế đi nữa. Sự u mê tin dùng Quý Ly của Nghệ Tông nặng tới mức chẳng những Phế Đế là phận cháu mà ngay Trang Định vương Trần Ngạc[c] là con lớn của Nghệ Tông cũng trở thành nạn nhân bởi muốn diệt sủng thần của thượng hoàng.

Sự ràng buộc bởi chữ "hiếu tử" khiến Phế Đế chịu chết không dám chống vua bác, vì bản ý của ông chỉ định trừ bỏ Quý Ly. Thoạt tiên, có thể xem việc Phế Đế mưu diệt Quý Ly giống như hoàng tử Lý Long Cơ (Đường Huyền Tông, Đường Minh Hoàng) lật đổ Võ Tắc Thiên và Thái Bình công chúa để cứu ngôi nhà Đường và thượng hoàng Nghệ Tông sẽ trao toàn quyền giống như Đường Duệ Tông. Nhưng với cá tính nhu nhược của Phế Đế, ngay cả khi diệt được Quý Ly, ông khó lòng vượt ra khỏi tầm tay vua bác. Cái chết của Phế Đế cũng như của Trần Ngạc là những cái chết tức tưởi bởi tay người thân trong họ tộc theo ý đồ của người ngoài.

Ghi chú

  1. ^ Ám chỉ việc Nghệ Hoàng bỏ con mình mà lập Đế Hiện là con của Duệ Tông.
  2. ^ Theo chú thích của Toàn thư thì đây chỉ Hồ Quý Ly.
  3. ^ Anh của Giản Định Đế, cha của Trùng Quang Đế.

Chú thích

  1. ^ Geoff Wade, translator, Southeast Asia in the Ming Shi-lu: an open access resource, Singapore: Asia Research Institute and the Singapore E-Press, National University of Singapore, http://epress.nus.edu.sg/msl/entry/2886, accessed July 12, 2016.
  2. ^ Geoff Wade, translator, Southeast Asia in the Ming Shi-lu: an open access resource, Singapore: Asia Research Institute and the Singapore E-Press, National University of Singapore, http://epress.nus.edu.sg/msl/reign/hong-wu/year-20-month-5-day-27, accessed January 23, 2017
  3. ^ Geoff Wade, translator, Southeast Asia in the Ming Shi-lu: an open access resource, Singapore: Asia Research Institute and the Singapore E-Press, National University of Singapore, http://epress.nus.edu.sg/msl/reign/hong-wu/year-23-month-intercalary-4-day-3, accessed January 23, 2017
  4. ^ eoff Wade, translator, Southeast Asia in the Ming Shi-lu: an open access resource, Singapore: Asia Research Institute and the Singapore E-Press, National University of Singapore, http://epress.nus.edu.sg/msl/entry/2886, accessed July 12, 2016.

Tham khảo

  • Đại Việt Sử ký toàn thư.
  • Các triều đại Việt Nam - Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng, Nhà xuất bản Thanh niên, 2001
  • Hoàng đế triều Trần - Trường Khánh.

Xem thêm

(Nguồn: Wikipedia)