Trần Thúc Nhẫn (? 1 -1883), trước có tên là Thúc Chính, sau được vua Tự Đức ban tên là Thúc Nhẫn), tự Hy Nhân; là quan triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.

Tiểu sử

Ông là người làng Niêm Phò, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền (nay thuộc tỉnh Thừa Thiên-Huế). Năm Đinh Mão (1867), ông thi đổ cử nhân dưới triều Tự Đức. Trong thời gian chờ được tuyển dụng, ông mở trường dạy học tại làng; sau được bổ quan, lần lượt trải đến chức Tham tri bộ Lễ.

Tháng 7 (âm lịch) năm Quý Mùi (tháng 8 năm 1883), tàu chiến Pháp tiến vào cửa Thuận An, huy hiếp kinh thành Huế. Lập tức, vua Hiệp Hòa sai Chưởng vệ Nguyễn Văn Sĩ đem cờ lệnh đi giao việc chống ngăn cho tướng Tôn Thất Thuyết, đồng thời cử Trần Thúc Nhẫn làm trưởng đoàn đi thương thuyết với quân Pháp 2 .

Việc thương thuyết không thành, Hải quân thiếu tướng Courbert cùng với Toàn quyền Harmand đem tàu chiến vào đánh cửa Thuận An, từ ngày 15 đến ngày 18 tháng 8 (dương lịch) năm 1883, thì Trấn Hải Thành vỡ. Theo Việt Nam sử lược thì ngay hôm ấy Trần Thúc Nhẫn và Lâm Hoành đã gieo mình xuống sông tự tử 3 .

Cảm phục lòng quả cảm của Trần Thúc Nhẫn, triều đình nhà Nguyễn đã ban tặng ông câu đối:

Như hà mạc như chi hà, ngọc thạch can qua thu bội. Hữu hạnh diệc hữu bất hạnh, ba đào ninh bậc cô chầu
Dịch nghĩa:
Thời thế biết làm sao, ngọc đã cũng tan khói lửa. May rủi thôi đành vậy, thuyền nan phó mặc ba đào.

Hiện nay, tại thành phố Huế có con đường mang tên Trần Thúc Nhẫn.

Mộ Trần Thúc Nhẫn

Mộ Trần Thúc Nhẫn ở cạnh chùa Từ Hiếu, Huế.

Trần Thúc Nhẫn được an táng tại làng Hiền Sĩ, xã Phong Sơn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên-Huế4 . Mộ ông ban đầu chỉ đắp bằng đất, rất đơn giản. Năm 1940, ông được con cháu cải táng về nghĩa trang Cô Dí của làng, thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, cùng tỉnh. Đầu năm 1986, chính quyền xã Quảng Thọ ra quyết định di dời tất cả mồ mã ở nghĩa trang Cô Dí để xây trường học. Vì vậy, ngày 3 tháng 3 năm 1986, cháu chắt ông đã phải cải táng ông và vợ ông sang đồi "Tùng Thiện" (cạnh chùa Từ Hiếu; nay thuộc phường Thủy Xuân, thành phố Huế) cho đến nay.

Mộ Trần Thúc Nhẫn và mộ vợ ông nằm song song với nhau, xung quanh được bao bọc bằng la thành. Khu mộ rộng 7,3m; dài 6m, được xây dựng theo kiểu hình chữ nhật, đơn giản nhưng thanh thoát. Vật liệu xây dựng chủ yếu là đá chẻ và xi măng. Tháng 10 năm 1994, khu mộ Trần Thúc Nhẫn được công nhận là di tích cấp quốc gia theo Quyết định số 2754-QĐ/BT ký ngày 15 tháng 10 năm 1994 5 .

Tham khảo

  • Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược. Nhà xuất bản Tân Việt, Sài Gòn, 1968.
  • Nguyễn Q. Thắng-Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1992.
  • Đinh Xuân Lâm-Nguyễn Văn Khánh-Nguyễn Đình Lễ, Đại cương lịch sử Việt Nam (Tập 2). Nhà xuất bản Giáo dục, 2006.

Chú thích

  1. ^ Ghi theo Từ điển nhận vật lịch sử Việt Nam. Theo bài "Lăng mộ Trần Thúc Nhẫn" trên Website Khám phá Huế, thì Trần Thúc Nhẫn hy sinh lúc 43 tuổi. Nếu tin theo đây, thì rất có thể ông sinh năm 1840.
  2. ^ Theo Từ điển nhận vật lịch sử Việt Nam, tr. 892.
  3. ^ Theo Việt Nam sử lược (tr. 534). Bài "Lăng mộ Trần Thúc Nhẫn" cho biết nơi ông Nhẫn tuẫn tiết là ngã ba Sình trên sông Hương. Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam chép khác: "Ngày 20 tháng 8, quân Pháp chiếm đóng thành Trấn Hải. Ngay hôm ấy, Trần Thúc Nhẫn gieo mình xuống biển tử tiết cùng với Lâm Hoành và các nghĩa sĩ khác" (tr. 893). Đại cương lịch sử Việt Nam (Tập 2) kể tương tự: "Chiều ngày 20, quân Pháp đổ bộ, đến tối hôm đó, thì chiếm toàn bộ Thuận An. Các quan Trấn thủ đều hy sinh" (tr. 55). Nếu tin theo đây, thì Trần Thúc Nhẫn mất ngày 20 tháng 8 năm 1883. Thông tin thêm: Sau khi Thuận An thất thủ, quân Pháp tiếp tục huy hiếp kinh thành Huế, buộc triều đình nhà Nguyễn sau đó phải ký Hòa ước Quý Mùi, 1883 với họ.
  4. ^ Theo bài "Lăng mộ Trần Thúc Nhẫn" ghi nơi an táng ban đầu của ông là ấp Trâm Bái, làng Dương Xuân Thượng, xã Thuỷ Xuân.
  5. ^ Theo bài "Lăng mộ Trần Thúc Nhẫn" trên Website Khám phá Huế

(Nguồn: Wikipedia)