Nguyễn Văn Lập (sinh năm 1927,1 tên khai sinh Kostas Sarantidis2 ) là một chiến sĩ quốc tế người Hy Lạp từng đứng trong hàng ngũ Việt Minh chống Pháp. Năm 2013, ông được chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Tiểu sử
Thuở nhỏ
Nguyễn Văn Lập sinh năm 1927 trong một gia đình công nhân ở Thessaloniki, Hi Lạp.3 Khi 16 tuổi, ông bị Đức Quốc xã bắt đi lính và đưa sang Đức. Ông trốn thoát và sống tạm trên những chuyến tàu qua lại biên giới Nam Tư - Hi Lạp.1
Sau khi chấm dứt thế chiến thứ hai, vì không có giấy tờ tùy thân nên ông không thể trở về đất mẹ Hi Lạp. Bị đưa vào trại tập trung tại Ý, đầu năm 19463 ông xin gia nhập lê dương Pháp và được đưa sang Đông Dương theo "sứ mệnh" giải phóng các dân tộc tại đây, giải giáp quân Nhật.1
Tham chiến tại Việt Nam
Đơn vị ông được tàu chiến đưa đến Sài Gòn rồi sau đó lên xe lửa đi ra miền Trung. Ngay những ngày đầu đến Việt Nam ông đã chứng kiến nhiều hành động tàn ác của quân Pháp đối với người dân bản xứ khiến ông nảy sinh ý định đào ngũ sang phe Việt Minh. Khi đóng quân tại Bình Hòa, Mũi Né, Bình Thuận, Kostas đã bắt liên lạc được với điệp viên của Việt Minh. Đầu tháng 6 năm 1946, ông đã cùng một người lính lê dương khác tên là Merinos giải thoát cho 25 tù chính trị và đem theo 1 súng máy, 2 súng trường chạy sang hàng ngũ Việt Minh.1 Tại khu kháng chiến, ông được đặt tên Việt là Nguyễn Văn Lập và chính thức trở thành gia nhập Quân đội Nhân dân Việt Nam, là một trong những chiến sĩ quốc tế trong hàng ngũ Việt Minh.
Khi tham gia Việt Minh, ông hoạt động trong các đơn vị chính quy Liên khu 5.2 Ở chiến trường Quảng Nam - Đà Nẵng, ông được giao công tác định vận, phát thanh vào đồn quân Pháp, thu phục được 40 lính lê dương bỏ hàng ngũ của Pháp và cứu sống được 120 người bị địch bắt.3 Ông cũng từng cùng đồng đội bắn rơi máy bay Morane và bắt sống 3 phi công Pháp ở gần ga Phú Cang (Quảng Nam). Ngày 13 tháng 4 năm 1948, đơn vị ông chống càn tại Hương An - Bà Rén, tiêu diệt 200 quân đối phương.3 Nguyễn Văn Lập cũng từng làm tổng giám thị trại tù binh Âu Phi số 3 ở Quảng Ngãi.
Năm 1949, ông được kết nạp vào Đảng Lao động Việt Nam.
Sau Hiệp định Genève, 1954 ông tập kết ra Bắc và tiếp tục cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của Việt Nam. Ông từng lái xe tải ở các mỏ than Na Dương, mỏ thiếc Cao Bằng, làm phiên dịch cho chuyên gia Cộng hoà Dân chủ Đức ở nhà máy in Tiến Bộ và nhiều lần đi đóng các vai Pháp, Mỹ trong một số bộ phim truyện Việt Nam.
Năm 1958, ông lấy vợ Hà Nội, sinh được bốn người con, một trai ba gái,1 tất cả đều lấy tên Việt Nam.2 Năm 1965, ông cùng gia đình trở về Hy Lạp, nơi ông còn có một mẹ già đang sống. Tại quê hương, ông vất vả hòa nhập lại công đồng. Ông cũng tham gia Đảng Cộng sản Hy Lạp, thành lập Hội người Việt Nam tại Hi Lạp, vận động ủng hộ vật chất cho Việt Nam.
Ông đã nhiều lần trở lại Việt Nam thăm đồng đội cũ, chiến trường xưa và dự Đại hội Liên hoan Chiến sĩ thi đua toàn quốc. Ông cũng từng tháp tùng tổng thống Hy Lạp sang thăm Việt Nam và được nhiều nhà lãnh đạo Việt Nam như Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Minh Triết... tiếp thân mật.1
Khen thưởng
Nhà nước Việt Nam đã tặng ông nhiều phần thưởng cao quý như Huân chương chiến công hạng Nhất, Huân chương Hữu nghị. Ngày 9 tháng 11 năm 2010, chủ tịch nước Việt Nam Nguyễn Minh Triết có quyết định công nhận ông là công dân Việt Nam, theo nguyện vọng của ông. Tháng 5 năm 2013, chủ tịch nước Trương Tấn Sang ký quyết định tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam cho ông.4
Chú thích
- ^ a ă â b c d “Anh hùng LLVTND Việt Nam Kostas Sarantidis Nguyễn Văn Lập”. Báo Nhân dân điện tử. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2013.
- ^ a ă â “Trao danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân tặng Chiến sĩ quốc tế Kostas Sarantidis Nguyễn Văn Lập”. Cổng TTĐT Bộ Quốc phòng Việt Nam. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2013.
- ^ a ă â b “Chiến sĩ quốc tế anh hùng Nguyễn Văn Lập”. Báo Nhân dân điện tử. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2013.
- ^ “Chiến sĩ quốc tế anh hùng Nguyễn Văn Lập”. Báo Bắc Giang điện tử. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2013.
Tham khảo
(Nguồn: Wikipedia)