Khải Định
啓定
Vua Việt Nam (chi tiết...)
越南阮朝弘宗宣皇帝阮福晙(启定1916年—1925年)31岁登基时的冕服照片(1916年).jpg
Vua Khải Định trong trang phục Tế Giao
Hoàng đế Đại Nam
Trị vì 18 tháng 5 năm 1916 - 6 tháng 11 năm 1925
(9 năm, 172 ngày)
Tiền nhiệm Duy Tân
Kế nhiệm Bảo Đại
Thông tin chung
Thê thiếp Hoàng Quý phi Trương Như Thị Tịnh
Ân phi Hồ Thị Chỉ
Huệ phi Hoàng Thị Cúc
vài bà phi tần khác
Hậu duệ Bảo Đại
Tên húy Nguyễn Phúc Bửu Đảo (阮福寶嶹)
Nguyễn Phúc Tuấn (阮福晙)
Niên hiệu Khải Định (啓定)
Thụy hiệu Tuyên Hoàng đế (宣皇帝)
Miếu hiệu Hoằng Tông (弘宗)
Triều đại Nhà Nguyễn
Hoàng gia ca Đăng đàn cung
Thân phụ Đồng Khánh
Thân mẫu Hựu Thiên Thuần hoàng hậu
Sinh 8 tháng 10 năm 1885
Huế, Đại Nam
Mất 6 tháng 11, 1925 (40 tuổi)
Huế, Đại Nam, Liên bang Đông Dương
An táng Ứng Lăng (應陵)
Chân dung Hoàng đế Khải Định khi đi công du ở Pháp

Khải Định (chữ Hán: 啓定帝; 8 tháng 10 năm 1885 – 6 tháng 11 năm 1925), tên khai sinh Nguyễn Phúc Bửu Đảo (阮福寶嶹), là vị hoàng đế thứ 12 của triều đại nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, ở ngôi từ 1916 đến 1925. Ông được truy tôn miếu hiệu là Nguyễn Hoằng Tông (阮弘宗).

Khải Định bị đánh giá là một vị vua chỉ ham chơi bời, cờ bạc. Ông tự sáng chế ra những bộ y phục mới cho mình và cho cả quan hộ vệ. Ông còn rất chuộng trang điểm, ăn mặc lòe loẹt, không tuân theo y phục hoàng tộc truyền thống và thường bị đả kích trên báo chí đương thời.

Thân thế

Khải Định có tên khai sinh là Nguyễn Phúc Bửu Đảo (阮福寶嶹), sau đổi tên thành Nguyễn Phúc Tuấn (阮福晙), con trưởng của vua Đồng Khánh, mẹ là Dương Thị Thục. Ông sinh vào ngày 1 tháng 9 năm Ất Dậu, tức 8 tháng 10 năm 1885, tại kinh thành Huế.

Năm 1889, Đồng Khánh mất, Bửu Đảo còn nhỏ tuổi nên không được kế vị. Nǎm 1906, Bửu Đảo được phong là Phụng Hóa công (奉化公). Ông là người mê cờ bạc, thường xuyên bị thua, có khi phải cầm bán cả những đồ dùng và những người hầu hạ. Bửu Đảo còn bắt vợ mình, là con gái của quan đại thần Trương Như Cương, về xin tiền bố mẹ gán nợ để đánh bạc tiếp.

Việc Bửu Đảo lên ngôi cũng không hoàn toàn suôn sẻ. Sau khi buộc tội Hoàng đế Duy Tân, người Pháp đã có ý muốn xóa bỏ chế độ quân chủ ở Việt Nam nhưng các triều thần, đặc biệt là Thượng thư Nguyễn Hữu Bài không chịu nên Pháp phải chiều theo ý.

Ngày 18 tháng 5 năm 1916, Bửu Đảo lên ngôi lấy niên hiệu là Khải Định (啓定).

Trị vì

Dưới thời Khải Định, triều đình Huế không có xích mích với Pháp. Mọi việc đều do Tòa khâm sứ định đoạt. Khải Định cũng kết thân với Khâm sứ Trung kỳ Jean François Eugène Charles và gửi gắm con mình là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy cho vợ chồng Khâm sứ.

Ngày 20 tháng 5 năm 1922, Khải Định sang Pháp dự Hội chợ thuộc địa ở Marseille. Đây là lần đầu tiên một vị vua triều Nguyễn ra nước ngoài. Chuyến đi công du của Khải Định đã làm dấy lên nhiều hoạt động của người Việt Nam yêu nước nhằm phản đối ông. Phan Chu Trinh đã gửi một bức thư dài trách Khải Định 7 tội, thường gọi là Thư thất điều hay Thất điều trần. Trong bức thư đó Phan Chu Trinh chỉ gọi là Bửu Đảo chứ không gọi vua Khải Định và trách Khải Định tội "ăn mặc lố lăng". Tại Pháp, trên tờ báo Người cùng khổ, Nguyễn Ái Quốc có một loạt bài chế giễu Khải Định trong đó có truyện ngắn Vi hành và còn viết vở kịch Con rồng tre, diễn ở ngoại ô Paris.

Tháng 9 năm 1924, từ Pháp về, Khải Định còn lo tổ chức lễ tứ tuần đại khánh rất lớn và tốn kém, bắt nhân dân khắp nơi gửi quà mừng. Sau lễ mừng thọ, ngân sách Nam triều kiệt quệ, Khải Định cho tǎng thêm 30% thuế điền. Ngô Đức Kế đã làm bài thơ liên châu (4 bài liên tiếp) để đả kích, trong đó có một bài như sau:

Ai về địa phủ hỏi Gia Long
Khải Định thằng này phải cháu ông?
Một lễ tứ tuần vui lũ trẻ
Trǎm gia ba chục khổ nhà nông
Mới rồi ngoài Bắc tai liền đến
Nǎm ngoái sang Tây ỉa vãi cùng?
Bảo hộ trau rồi nên tượng gỗ
Vua thời còn đó, nước thời không !

Khải Định cũng không được lòng dân chúng. Ở Huế nhân dân đã truyền tụng câu ca dao phổ biến về Khải Định:

Tiếng đồn Khải Định nịnh Tây
Nghề này thì lấy ông này tiên sư

Khải Định có xây cất nhiều công trình, trong đó nổi tiếng nhất chính là lăng của ông. Lăng Khải Định khác hẳn các lǎng tẩm xưa nay và đã trở thành vấn đề thảo luận của nhiều người, cả dư luận chung và trong giới chuyên môn kiến trúc. Nhiều người chê lăng Khải Định có kiến trúc lai căng, nhưng lại có ý kiến cho là độc đáo và khác lạ.

Khải Định ở ngôi được 10 năm thì bị bệnh nặng và mất vào ngày 20 tháng 9 năm Ất Sửu tức 6 tháng 11 năm 1925, thọ 41 tuổi. Lăng của vua Khải Định hiệu Ứng Lăng, tại làng Châu Chữ, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên - Huế

Tiền Phi long thời Khải Định

Gia đình

Khải Định có tất cả 12 bà vợ. Sách sử còn chép vua Khải Định bất lực,1 không thích gần đàn bà, chỉ thích đàn ông2 [cần dẫn nguồn]. Tuy nhiên, vua Khải Định vẫn đối xử tốt với các bà vợ của mình.

  1. Hoàng quý phi Trương Như Thị Tịnh (皇貴妃張如氏靜; 1889 - 1968), con gái quan Đại thần Trương Như Cương, được cưới làm Phủ thiếp khi vua Khải Định còn là ông Phụng Hoá công ở Tiềm để. Bà bỏ đi tu trước khi ông lên ngôi. Ông vẫn tưởng nhớ và trao chức Hoàng quý phi cho bà.
  2. Nhất giai Ân phi Hồ Thị Chỉ (一階恩妃胡氏芷; 1902 - 1982), con gái quan Thượng thư Hồ Đắc Trung. Bà là Chính phi được triều đình cưới hỏi sau Khải Định lên ngôi.
  3. Nhị giai Huệ phi Hoàng Thị Cúc (二階惠妃黃氏菊; 1890 - 1980), mẹ của hoàng đế Bảo Đại.
  4. Tam giai Diệu tần Phạm Thị Hoài.
  5. Tứ giai Du tần Vũ Thị Dung.
  6. Ngũ giai Điềm tần Nguyễn Đình Thị Liên.
  7. Quý nhân Trần Đăng Thị Thông.
  8. Tài nhân Ngô Thị Trang.

Tham khảo

Xem thêm

  • Lăng Khải Định

Chú thích

  1. ^ KHẢI ĐỊNH (BỬU BẢO) 1916-1925, VNN
  2. ^ “Chấn động "tình một đêm" của bậc đế vương”. Afamily.vn. 18 tháng 7 năm 2012. Truy cập 18 tháng 2 năm 2015. 

(Nguồn: Wikipedia)