Kháng chiến chống Mĩ

I- Tình hình Việt Nam sau Hiệp định Giơnevơ và nhiệm vụ cách mạng trong thời kì mới

Sau 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mĩ , nhân dân ta giành được thắng lợi to lớn, đánh dấu bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (7-5-1954) và Hiệp định Giơnevơ (21-7-1954). Cách mạng Việt Nam từ đó bước sang giai đoạn mới với nhiệm vụ to lớn là củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất đất nước, hoàn thành độc lập và dân chủ.

Để thực hiện hoà bình, bước dầu tiên là quân đội hai bên phải ngừng bắn; đồng thời tách quân đội hai bên ra hai vùng khác nhau, tức là điều chỉnh khu vực. Điều chỉnh khu vực chỉ là một giải pháp tạm thời, không phải là phân chia biên giới.

Theo quy định của Hiệp định Giơnevơ, việc ngừng bắn, tập kết, chuyển quân và chuyển giao khu vực sẽ được thi hành trong thời gian 300 ngày, kể từ ngày kí Hiệp định Giơnevơ (21-7-1954 - 19-5-1955).

Về việc thực hiện ngừng bắn: Theo Điều 10 trong bản Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, việc thực hiện ngừng bắn phải đồng thời thực hiện trên toàn cõi Việt Nam, tại tất cả các chiến trường và cho tất cả mọi lực lượng của hai bên. Nhưng do đặc điểm của chiến trường Việt Nam, tính theo thời gian thực sự cần thiết để chuyển lệnh ngừng bắn tới những cấp thấp nhất của lực lượng chiến đấu, hai bên đồng ý sẽ thực hiện ngừng bắn hoàn toàn và đồng thời, theo từng khu vực lãnh thổ và theo thời gian quy định cho từng khu vực: - Ở Bắc Bộ: Đúng 8 giờ (giờ địa phương) ngày 27-7-1954.

- Ở Trung Bộ: Đúng 8 giờ (giờ địa phương) ngày 1-8-1954.

- Ở Nam Bộ: Đúng 8 giờ (giờ địa phương) ngày 11-8-1954.

Do thái độ nghiêm chỉnh và đấu tranh kiên quyết của ta, phía Pháp cũng phải thi hành đúng lệnh ngừng bắn trên các chiến trường, trừ một số nơi các phần tử thân Mĩ ở miền Nam có hành động khiêu khích, phá hoại.

Về việc tập kết, chuyển quân và chuyển giao khu vực: Trong thời kì chiến tranh, các khu vực đóng quân của lực lượng vũ trang hai bên không có giới tuyến rõ ràng; các vùng kiểm soát của ta và địch xen kẽ nhau, tạo nên hình thái cài răng lược. Vì vậy, để thực hiện ngừng bắn, tập kết, chuyển quân và chuyển giao khu vực, vấn đề tách rời các đơn vị chiến đấu của hai bên để tránh xung đột dẫn đến tình trạng chiến tranh trở lại, là một việc cần thiết.

Sau khi tách rời các đơn vị chiến đấu, việc tập kết lực lượng của hai bên ở hai miền và chuyển giao khu vực được tiến hành.

Trước khi rút quân và chuyển giao khu vực cho đối phương, chúng ta đã giải thích cho đồng bào địa phương giải quyết khó khăn trong đời sống cho đồng bào.

Ngược lại, về phía Pháp, trước khi rút quân khỏi miền Bắc, chúng cấu kết với đế quốc Mĩ và tay sai, ra sức hoạt động phá hoại. Chúng cài gián điệp, đốt phá kho tàng, phá hoại những công trình công cộng, những di tích lịch sử và văn hoá, vơ vét tài sản, vật tư, tháo dỡ máy móc, thiết bị, hòng làm tê liệt hoặc gây khó khăn cho nhân dân ta trong công tác tiếp quản. Chúng còn dụ dỗ, cưỡng bức đồng bào Công giáo di cư vào Nam; tổ chức nhiều nhóm phỉ gây rối ở một số nơi thuộc vùng Tây Bắc, Đông Bắc.

Nhân dân ta, nhất là ở những vùng sắp giải phóng, đã tiến hành các cuộc đấu tranh rất quyết liệt chống lại những âm mưu và hành động phá hoại của địch. Trên cơ sở đó, việc tiếp quản các vùng mới giải phóng diễn ra tốt đẹp.

Ngày 10-10-1954, quân ta tiếp quản thủ đô Hà Nội. Ngày 1- 1-1955, nhân dân ta tổ chức cuộc mít tinh lớn ở Quảng trường Ba Đình để chào đón Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh trở về thủ đô sau 8 năm xa cách. Ngày 13-5-1955, đơn vị cuối cùng của quân đội viễn chinh Pháp rút khỏi Hải Phòng. Nửa nước Việt Nam hoàn toàn được giải phóng, đánh dấu thắng lợi to lớn của cuộc kháng chiến và đặt cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh tiến tới xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ và hoà bình.

Sau thời gian 300 ngày đấu tranh thực hiện các điều khoản ngừng bắn, tập kết, chuyển quân và chuyển giao khu vực, miền Bắc nước ta đã hoàn toàn giải phóng. Như vậy, "Sau hơn 80

năm nô lệ, ngày nay cả miền Bắc là của nhân dân ta, dưới chế độ Dân chủ Cộng hoà do nhân dân ta làm chủ. Thắng lợi to lớn ấy là do từ Nam đến Bắc, đồng bào ta đoàn kết, bộ đội ta anh dũng, Đảng và Chính phủ ta lãnh đạo đúng đắn. Ta lại có nhân dân các nước bạn, nhân dân Pháp và nhân dân yêu chuộng hoà bình thế giới ủng hộ" .

Miền Bắc hoàn toàn giải phóng cũng có nghĩa là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân về cơ bản đã hoàn thành. Miền Nam còn nằm dưới ách thống trị của đế quốc xâm lược và phong kiến tay sai. Trước sự thay đổi của tình hình đất nước, Đảng ta kịp thời xác định nhiệm vụ cách mạng cho phù hợp.

Tháng 9-1954, Bộ Chính trị ra Nghị quyết nêu rõ nhiệm vụ chung của Đảng là đoàn kết và lãnh đạo nhân dân đấu tranh thực hiện đình chiến, đề phòng và khắc phục mọi âm mưu phá hoại Hiệp định để củng cố hoà bình; ra sức hoàn thành cải cách ruộng đất, phục hồi và nâng cao sản xuất, tăng cường xây dựng quân đội nhân dân để củng cố miền Bắc; giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh chính trị của nhân dân miền Nam, nhằm củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ trong toàn quốc.

Như vậy, tuy chưa nêu cụ thể, nhưng Nghị quyết Bộ Chính trị đã xác định mỗi miền có một nhiệm vụ khác nhau. Miền Bắc phải được củng cố vững chắc để làm chỗ dựa cho cách mạng miền Nam. Muốn vậy, không thể để miền Bắc trong tình trạng sản xuất nhỏ, phân tán, lạc hậu và càng không thể đi theo con đường phát triển tư bản chủ nghĩa.

Yêu cầu của cách mạng miền Bắc cũng như của cách mạng cả nước và nguyện vọng của toàn dân đòi hỏi miền Bắc phải đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua con đường phát triển tư bản chủ nghĩa. Chỉ có đi lên chủ nghĩa xã hội mới có thể đi tới một xã hội công bằng và văn minh, không có người bóc lột người; đồng thời cũng xoá bỏ nguồn gốc sinh ra phương thức bóc lột.

Yêu cầu của cách mạng nước ta cũng như nguyện vọng toàn dân hoàn toàn phù hợp với đặc điểm và nội dung của thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.

Mặt khác, ở nước ta, trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, giai cấp công nhân và nông dân đóng vai trò quyết định; đội tiên phong của giai cấp công nhân nắm độc quyền lãnh đạo cách mạng. Trong điều kiện đó, thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân không những là thắng lợi của nhân dân lao động đối với chủ nghĩa đế quốc và chế độ phong kiến, mà còn là thắng lợi về chính trị của giai cấp vô sản đối với giai cấp tư sản trong nước. Chính vì thế, "sự kết thúc thắng lợi của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng có nghĩa là sự mở đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa" 1.

Xuất phát tử những cơ sở trên, Đảng ta quyết định đưa miền Bắc tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Quyết định này cũng chính là sự vận dụng sáng tạo học thuyết cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác - Lê nin vào hoàn cảnh cụ thể nước ta.

Ở miền Nam, theo quy định của Hiệp định Giưnevơ, lực lượng Liên hiệp Pháp tạm thời nắm quyền kiểm soát trong hai năm. Nhưng trong quá trình đó, đế quốc Mĩ đã gạt Pháp, độc chiếm miền Nam, biến miền Nam trở thành thuộc địa kiểu mới.

Sự nghiệp giải phóng dân tộc do vậy chưa hoàn thành. Trong điều kiện ấy, nhân dân ta ở miền Nam có nhiệm vụ đẩy mạnh đấu tranh chống đế quốc Mĩ và tay sai, thực hiện giải phóng miền Nam, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới hoà bình thống nhất nước nhà.

Như vậy, từ cuối năm 1954, sau ngày hoà bình lập lại, trong một giai đoạn lịch sử, dưới sự lãnh đạo của một Đảng, nhân dân ta đồng thời tiến hành hai chiến lược cách mạng khác nhau: Chiến lược cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Đây chính là một đặc điểm lớn nhất và cũng là nét độc đáo của cách mạng nước ta từ tháng 7-1954 đến tháng 5-1975.

Mỗi cuộc cách mạng nhằm giải quyết những yêu cầu cụ thể, cấp bách của mỗi miền, nhưng có mối quan hệ khăng khít với nhau và tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển. Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc không chỉ có mục tiêu xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, mà còn phải làm chỗ dựa vững chắc cho cuộc cách mạng giải phóng miền Nam và cho cả sự nghiệp xây dựng đất nước sau khi thống nhất. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam không chỉ đánh đổ ách thống trị của đế quốc xâm lược, giải phóng miền Nam, mà còn phải ra sức bảo vệ miền Bắc có điều kiện hoà bình xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Phải dùng sức mạnh của cả nước để giải phóng miền Nam, đồng thời cũng phải dùng sức mạnh của cả nước để bảo vệ và xây dựng miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội.

Đó là mối quan hệ biện chứng, hữu cơ giữa cách mạng hai miền Nam - Bắc từ sau năm 1954.

Trong mối quan hệ trên, mỗi chiến lược cách mạng có một vị trí, vai trò khác nhau. Miền Bắc là hậu phương, cho nên cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của cách mạng cả nước. Miền Nam là tiền tuyến, cho nên cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam, thực hiện hoà bình thống nhất đất nước.

Cả hai chiến lược cách mạng ở hai miền đều nhằm thực hiện một mục tiêu chung của cách mạng cả nước là đấu tranh chống đế quốc Mĩ và tay sai, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, tích cực góp phần vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

 

II- Miền Bắc hoàn thành cải cách ruộng đất, khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa (1954-1960)

Sau ngày giải phóng, miền Bắc nước ta đứng nước nhiều khó khăn về kinh tế - xã hội.

Nền kinh tế nước ta vốn là nông nghiệp lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá rất nặng nề. Trong các vùng nông thôn mới giải phóng, hậu quả do các cuộc càn quét của địch để lại hết sức nghiêm trọng: Khoảng 14 vạn héc ta ruộng đất bị bỏ hoang; hệ thống thủy lợi hư hỏng nặng, khiến 200.000 héc ta ruộng đồng không nước tưới tiêu, cằn cỗi và úng ngập; thôn xóm tiêu điều, xơ xác; nhân công, nông cụ và trâu bò bị thiếu nghiêm trọng. Từ cuối năm 1954 đến nửa đầu năm 1955, nạn đói lan rộng tới trên 200 xã. Các thành thị vừa mới tiếp quản mang nặng tính chất buôn bán, tiêu thụ là chủ yếu. Phần lớn các nhà máy, xí nghiệp không hoạt động hoặc hoạt động cầm chừng. Nguyên liệu, nhiên liệu, máy móc thiếu thốn. Gần 50% kho tàng, công sở bị phá hoại. Thương nghiệp bị đình đốn, các hoạt động đầu cơ tích trữ, nâng giá lũng đoạn thị trường diễn ra phổ biến. Tiền tệ chưa thống nhất, nền kinh tế quốc dân mất cân đối gay gắt. Hơn 50.000 lao động thất nghiệp. Hàng trăm ngàn người lâm vào cảnh thiếu đói.

Ở các vùng tự do cũ trong kháng chiến, tuy công nghiệp và nông nghiệp có phát triển, nhưng quy mô nhỏ bé, kĩ thuật lạc hậu nên năng suất rất thấp, không thể đáp ứng được yêu cầu sản xuất và đời sống ngày càng cao của nhân dân.

Trong khi đó, các phần tử tề ngụy rã đám chưa qua cải tạo, lực lượng thổ phỉ và bọn gián điệp, đặc vụ nước ngoài được cài lại vẫn ngấm ngầm hoạt động... càng làm cho tình hình chính trị xã hội thêm phức tạp.

Tình hình trên đặt ra cho Đảng và nhân dân miền Bắc một nhiệm vụ hết sức nặng nề là khẩn trương khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh. Muốn vậy, nhiệm vụ trước mắt là phải tiếp tục hoàn thành cải cách ruộng đất.

Trong hoàn cảnh đấu tranh để thống nhất nước nhà, việc thực hiện cải cách ruộng đất vừa phải thoả mãn quyền lợi về kinh tế và chính trị của nông dân, củng cố khối liên minh công nông, vừa phải mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.

Tại kì họp lần thứ 4 (3-1955), Quốc hội thông qua Nghị quyết tán thành điều chỉnh và bổ sung của Chính phủ về cải cách ruộng đất: Dùng hình thức toà án thay cho những cuộc đấu tố của nông dân, thu hẹp diện tịch thu và trưng thu, mở rộng diện trưng mua, chiếu cố những địa chủ kháng chiến và gia đình địa chủ có con em là bộ đội, cán bộ, viên chức cách mạng.

Trên cơ sở đó, đợt 6 giảm tô và đợt 2 cải cách ruộng đất là những đợt đầu tiên được tiến hành trong hoà bình. Từ lúc này trở đi, cuộc phát động quần chúng nông dân bắt đầu lan rộng vào vùng trung du và đồng bằng mới giải phóng. Ngày 20-7- 1956, đợt 5 cải cách ruộng đất kết thúc. Đây là đợt cuối cùng và là đợt lớn nhất trong cải cách ruộng đất được tiến hành trên phạm vi 1.732 xã với 6 triệu dân ở 20 tỉnh và 2 thành phố.

Trong quá trình cải cách ruộng đất, chúng ta đã phạm phải những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài. Sau khi phát hiện sai lầm (4-1956), Đảng ta đã có chỉ thị sửa sai.

Sau một năm sửa sai (1957), công cuộc cải cách ruộng đất đã hoàn thành thắng lợi. Chúng ta đã tịch thu, trưng thu và trưng mua 810.000 ha ruộng đất, trên 100.000 trâu bò, 1.800.000 nông cụ từ trong tay giai cấp địa chủ chia cho 2.200.000 hộ nông dân lao động (chiếm 72,8% số hộ ở nông thôn được chia ruộng đất).

Chế độ chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ phong kiến vĩnh viễn bị thủ tiêu. Chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân được xác lập. Nông dân thực sự trở thành người chủ ở nông thôn không chỉ về chính trị, mà cả về kinh tế0. Khối liên minh công nông - nền tảng của chuyên chính vô sản - được củng cố một bước.

Thắng lợi của cải cách ruộng đất là thắng lợi to lớn và căn bản, làm thay đổi bộ mặt nông thôn miền Bắc. Nó đem lại niềm phấn khởi trong nông dân, có tác dụng rất lớn trong việc đẩy mạnh sản xuất, khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh.

Nhiệm vụ khôi phục kinh tế được tiến hành trong điều kiện hết sức gay gắt của một xã hội vốn là thuộc địa vừa trải qua chiến tranh tàn phá nặng nề. Vì vậy, ngay từ tháng 9-1954, Bộ Chính trị ra Nghị quyết vạch rõ nhiệm vụ trước mắt của miền Bắc là ổn định trật tự xã hội, ổn định vật giá, ổn định thị trường.

Yêu cầu của nhiệm vụ khôi phục kinh tế là sau hai năm về cơ bản phải đưa mức sản xuất lên ngang bằng mức trước chiến tranh (1939), nhằm giảm bớt khó khăn, nâng cao một bước đời sống của nhân dân; phát triển kinh tế một cách có kế hoạch; mở rộng giao lưu kinh tế giữa các vùng trong nước.

Sản xuất nông nghiệp được đặc biệt coi trọng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá II) nhấn mạnh: Phải nhận thức đầy đủ và sâu sắc về tính chất rất trọng yếu của sản xuất nông nghiệp đối với cả nền kinh tế nước ta hiện nay và sau này. Phải khôi phục sản xuất nông nghiệp để giải quyết vấn đề lương thực (trước mắt là cứu đói và phòng đói) làm cơ sở cho việc khôi phục và phát triển công - thương nghiệp. Phải khôi phục sản xuất nông nghiệp và làm nghề phụ ở nông thôn để nâng cao sức sống của nông dân; thông qua đó, củng cố công nông liên minh.

Nhân dân ta có những cố gắng phi thường, vượt qua mọi khó khăn, thiếu thốn để khôi phục và phát triển sản xuất. Nhà nước cho nhân dân vay vốn để đầu tư vào sản xuất, ổn định đời sống.

Nhờ đó, đến cuối năm 1957, những vết thương chiến tranh trên đồng ruộng đã được hàn gắn: 125.000 mẫu ruộng hoang được đưa vào sản xuất, 12 hệ thống nông giang được sửa chữa cùng với việc xây dựng thêm những công trình thuỷ nông mới. Một hệ thống đê điều với chiều dài 3.500 km được tu sửa và bồi đắp.

. .

Những kết quả trên đã góp phấn tăng nhanh sản lượng lương thực và hoa màu. Tính đến năm 1956, miền Bắc sản xuất được khoảng 4 triệu tấn lương thực (vượt xa so với năm 1939: 2,4 triệu tấn). Tổng sản lượng hoa màu quy ra thóc đạt bình quân hằng năm là 680.000 tấn (gấp 3 lần mức năm 1939: 220.000 tấn). Nạn đói có tính chất kinh niên ở miền Bắc bước đầu được giải quyết; đời sống nhân dân được cải thiện một bước.

Về công nghiệp, Đảng ta chủ trương trước tiên phải chú trọng khôi phục và phát triển công nghiệp nhẹ; đồng thời củng cố và phát triển các cơ sở công nghiệp nặng trong phạm vi cần thiết và có khả năng . Trong ba năm (1955-1957), chúng ta đã khôi phục hầu hết các xí nghiệp quan trọng. Nhiều cơ sở công nghiệp cũ không những được phục hồi, mà còn tăng thêm trang thiết bị hiện đại (mỏ than Hòn Gai, dệt Nam Định, xi măng Hải Phòng...). Chúng ta còn xây dựng thêm nhiều cơ sở công nghiệp mới. Đến cuối năm 1957, miền Bắc có 97 xí nghiệp công nghiệp do Trung ương quản lí.

Cùng với công nghiệp, thủ công nghiệp gần như bị phá sản trong thời gian chiến tranh đã được phục hồi rất nhanh chóng.

Đến năm 1957, miền Bắc đã có gần 460.000 người tham gia sản xuất thủ công nghiệp (gấp hai lần số thợ thủ công năm 1941, là năm phát triển cao nhất); cung cấp 58,8% sản phẩm tiêu dùng trong nước.

Về thương nghiệp, Nhà nước ta chủ trương chuyển hoạt động sang hướng phục vụ sản xuất, phục vụ đời sống nhân dân; tăng cường mậu dịch quốc doanh, làm cho mậu dịch quốc doanh phát huy tác dụng tốt đối với đời sống nhân dân và sản xuất.

Theo phương hướng đó, chỉ trong thời gian ngắn, chúng ta đã đạt được nhiều kết quả: Giá cả thống nhất và ổn định, đời sống nhân dân được cải thiện. Hệ thống mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán không ngừng mở rộng và cung cấp nhiều mặt hàng cho nhân dân.

Việc giao lưu kinh tế giữa các địa phương trong nước được tăng cường. Hoạt động ngoại thương dần dần tập trung trong tay Nhà nước. Quan hệ buôn bán với nước ngoài ngày càng được mở rộng. Tính đến năm 1957, miền Bắc đã đặt quan hệ thương mại với 27 nước.

Về giao thông vận tải, đến cuối năm 1957, chúng ta đã khôi phục được 681 km đường sắt, khôi phục và xây dựng thêm 10.607 km đường ô tô. Các bến cảng (Hải Phòng, Hòn Gai, Cẩm Phả, Bến Thủy) được tu sửa và mở rộng, góp phần rất quan trọng trong giao lưu hàng hoá, phục hồi kinh tế.

Cùng với thắng lợi trong nhiệm vụ khắc phục hậu quả chiến tranh, cơ cấu kinh tế cũng như quan hệ sản xuất miền Bắc cũng bước đầu có sự thay đổi. Đến cuối năm 1957, đã có 1/4 số hộ nông dân vào tổ đổi công, hơn 50% số thợ thủ công vào các tổ sản xuất và các hợp tác xã1. Thành phần kinh tế quốc doanh chiếm 58% giá trị sản lượng công nghiệp, 100% trong các lĩnh vực ngân hàng, xây dựng cơ bản, bưu diện, đường sắt, 97% trong ngoại thương1. Như vậy, kinh tế quốc doanh đã nắm được toàn bộ hoặc phần lớn những ngành then chốt và giữ vai trò chủ đạo đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Trong thời kì khôi phục kinh tế, sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế cũng có những bước chuyển biến quan trọng. Hơn một triệu người đã thoát nạn mù chữ. Cùng với giáo dục phổ thông hệ 10 năm, nền đại học cũng được chú ý phát triển. Công tác y tế được coi trọng; các bệnh truyền nhiễm được đẩy lùi.

Những thắng lợi giành được trong thời kì khôi phục kinh tế có tác dụng tăng cường sức mạnh Nhà nước dân chủ nhân dân.

Khối đoàn kết toàn dân được mở rộng, đánh dấu bằng sự ra đời của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (9-1955). Đó là những nhân tố rất quan trọng đảm bảo cho quân và dân ta đập tan mọi âm mưu, hành động chống phá của các thế lực phản cách mạng, giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã hội.

Trước ngày Hiệp định Giơnevơ có hiệu lực, thực dân Pháp liên tục cho máy bay thả vũ khí, lương thực điện đài cho bọn phản động cài lại để đánh phá ta. Chúng tiếp tục gây phỉ, tổ chức hoạt động gián điệp, biệt kích, tránh gặp bộ đội, nếu bị đánh mạnh thì cất giấu vũ khí lẩn trốn, trên đường rút sang Lào hoặc trá hàng. Lực lượng phỉ ở Lào Cai có 5.025 tên, Hà Giang 798 tên, Yên Bái 147 tên...

Tranh thủ lúc quân Pháp chuẩn bị rút khỏi miền Bắc, tinh thần bọn phỉ hoang mang dao động, ngày 3 0-7-1954, Trung đoàn 246 được lệnh lên Tây Bắc, phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương tiêu diệt bọn phỉ ở đây. Trong đợt truy quét này, ta diệt 128 tên, bắt 88 tên, gọi hàng 1.203 tên. Ngày 16-4-1955, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra chỉ thị nhắc nhở các cấp uỷ tiếp tục lãnh đạo công tác triệt phá âm mưu gây phỉ của đế quốc.

Thực hiện chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương, ở những tỉnh trọng điểm như Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Cao Bằng, Hải Ninh, các đơn vị vũ trang đi vào từng bản làng của đồng bào dân tộc, tuyên truyền chính sách của Đảng và Chính phủ, vạch trần tội ác của địch, phân hoá, cô lập bọn phản động. Bộ đội ta tận tình giúp đỡ đồng bào sản xuất, thực hiện "ba cùng" với dân, kiên trì phát động quần chúng, từng bước làm tan rã lực lượng phỉ. Cũng nhờ dựa vào dân, bộ đội và lực lượng công an còn kịp thời trấn áp và bắt gọn các đảng phái chính trị phản động ở một số địa phương (Đại Việt, Việt Nam Quốc dân đảng, Năm Sao Trắng...).

Sau ba năm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ khôi phục kinh tế (1955 - 1957), nhân dân miền Bắc sôi nổi bước vào thời kì cải tạo xã hội chủ nghĩa.

Trung tuần tháng 11-1958, Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đề ra nhiệm vụ của miền Bắc là "đẩy mạnh cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm trước mắt là đẩy mạnh cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công và cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế tư bản tư doanh; đồng thời ra sức phát triển thành phần kinh tế quốc doanh..." 1.

Quán triệt Nghị quyết Trung ương lần thứ 14, tại kì họp lần thứ 9 (12-1958), Quốc hội khoá I đã thông qua kế hoạch ba năm cải tạo và phát triển kinh tế, văn hoá, gồm những nội dung cơ bản sau đây:

Cải tạo xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp là thực hiện cải tạo quan hệ sản xuất kết hợp với cải tiến kĩ thuật, tăng năng suất lao động và giáo dục tư tưởng xã hội chủ nghĩa cho nông dân, nhằm đưa giai cấp nông dân từ chỗ làm ăn riêng lẻ đi dần vào con đường làm ăn tập thể xã hội chủ nghĩa.

Vì vậy cải tạo xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp là một cuộc cách mạng sâu sắc, lớn lao và phức tạp. Nó thay đổi tận gốc chế độ tư hữu và cả thói quen canh tác phân tán bao đời nay của hàng triệu nông dân.

Để bảo đảm cho cuộc vận động hợp tác hoá nông nghiệp thắng lợi, một mặt phải quán triệt đường lối giai cấp của Đảng là dựa hẳn vào bần nông và trung nông lớp dưới, đoàn kết chặt chẽ với trung nông, hạn chế đi đến xoá bỏ sự bóc lột của kinh tế phú nông, cải tạo tư tưởng phú nông, ngăn ngừa địa chủ ngóc đầu dậy, tiếp tục mở đường cho địa chủ lao động cải tạo thành con người mới, kiên quyết đưa nông dân đi vào con đường hợp tác hoá nông nghiệp, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Mặt khác, phải thực hiện đúng ba nguyên tắc: Tự nguyện, cùng có lợi và quản lí dân chủ; trong đó cơ bản nhất là nguyên tắc tự nguyện.

Ngoài đường lối giai cấp và những nguyên tắc đúng đắn, điều rất quan trọng là phải biết định ra được những hình thức quá độ thích hợp để tổ chức nông dân, hướng dẫn họ đi dần vào con đường làm ăn tập thể xã hội chủ nghĩa.

Đảng ta chủ trương thực hiện cuộc vận động hợp tác hoá nông nghiệp qua ba bước: Tổ đổi công, hợp tác xã bậc thấp và hợp tác xã bậc cao.

Từ mùa thu năm 1958, chúng ta tiến hành đợt thí điểm đầu tiên cuộc vận động hợp tác hoá nông nghiệp. Tiếp đó, dưới ánh sáng Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 14 (ll-1958) và lần thứ 16 (4-1959), phong trào hợp tác nông nghiệp được đẩy mạnh. Trong năm 1959, chúng ta tổ chức đợt Giáo dục mùa thu, cho nông dân học tập chính sách hợp tác hoá nông nghiệp và tranh luận rộng rãi về hai con đường, bước đầu giải quyết vấn đề "ai thắng ai" trên mặt trận tư tưởng. Sau đợt học tập này, trung nông gia nhập hợp tác xã. Cũng từ đó, cuộc vận động hợp tác hoá nông nghiệp trở thành cao trào rộng khắp.

Trong quá trình vận động hợp tác hoá nông nghiệp, thấm nhuần lời dạy cửa Lênin: "Một chế độ xã hội chỉ nảy sinh với điều kiện là được một giai cấp nhất định nào đó giúp đỡ về tài chính " 1, Nhà nước đã dành cho chế độ hợp tác hoá nông nghiệp một số đặc quyền về kinh tế, tín dụng ngân hàng. Trong ba năm (1958 - 1960), Nhà nước đầu tư cho nông nghiệp 180 triệu đồng, cho nông dân vay 138 triệu đồng, cung cấp cho nông dân 30 vạn tấn phân hoá học, 6 vạn trâu, bò cày, 4 triệu nông cụ các loại 2, xây dựng 19 công trình thuỷ lợi, bảo đảm việc tưới nước cho 153 vạn ha ruộng đất.

Đến cuối năm 1960, miền Bắc đã xây dựng được 41.401 hợp tác xã, với khoảng 86% số hộ nông dân và 76% diện tích ruộng đất; trong đó có gần 12% số hộ tham gia vào hợp tác xã bậc cao.

Tại các địa phương miền núi, do có những đặc điểm riêng, Đảng ta chủ trương tiến hành cuộc vận động hợp tác hoá nông nghiệp, phát triển sản xuất, kết hợp hoàn thành cải cách dân chủ.

Tính đến tháng 6-1961, toàn miền núi có 357.753 hộ nông dân vào hợp tác xã, chiếm 75,64% tổng số hộ nông dân; trong đó có 20,63% số hộ vào hợp tác xã bậc cao.

Thắng lợi của cuộc vận động hợp tác hoá nông nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng. Một giai cấp nông dân tập thể đã xuất hiện và do đó, khối liên minh công nông - nền tảng của chuyên chính vô sản - thực sự được củng cố vững chắc.

Đặc biệt, trong hoàn cảnh chiến tranh, hợp tác hoá nông nghiệp đã bảo đảm những điều kiện vật chất và tinh thần cho những người tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu trên các chiến trường.

Cùng với công cuộc vận động hợp tác hoá nông nghiệp, công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công - thương nghiệp tư bản tư doanh cũng diễn ra tốt đẹp.

Công - thương nghiệp tư bản tư doanh và giai cấp tư sản dân tộc là những thành phần kinh tế và giai cấp bóc lột. Vì vậy, khi miền Bắc bước vào thời kì cách mạng xã hội chủ nghĩa, theo quan niệm của Đảng ta lúc đó, việc xoá bỏ thành phần kinh tế và giai cấp bóc lột ấy là một tất yếu.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ 16 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (4-1959) nêu rõ: "Kinh tế tư bản tư doanh và giai cấp tư sản thực chất là đối tượng của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản, giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản là mâu thuẫn đối kháng, phải giải quyết bằng cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, bằng sự xoá bỏ chủ nghĩa tư bản và giai cấp tư sản..." 1.

Tuy nhiên, cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh ở miền Bắc nước ta được tiến hành trong hoàn cảnh đặc biệt. Đó là lúc Nhà nước dân chủ nhân dân đã được củng cố vững mạnh, khối liên minh công nông bền chặt, nền kinh tế quốc doanh được mở rộng và giữ vai trò chủ đạo đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân; là lúc giai cấp tư sản dân tộc miền Bắc nhỏ yếu, lại đã từng là bạn đồng minh của giai cấp công nhân trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Từ sau ngày hoà bình lập lại họ vẫn tán thành Cương lĩnh Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, có khả năng tiếp thu cải tạo xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh được tiến hành trong khi đất nước ta còn tạm thời bị chia làm hai miền, phương châm chính sách của Đảng là xây dựng miền Bắc, chiếu cố miền Nam nhằm tăng cường lực lượng của cả nước trong cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà.

Trong hoàn cảnh ấy, Đảng ta chủ trương chuyển mâu thuẫn vốn đối kháng giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân thành mâu thuẫn không đối kháng, cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh bằng phương pháp hoà bình, thông qua hình thức công tư hợp doanh.

Với phương pháp cải tạo hoà bình, về kinh tế, Nhà nước không tịch thu tư liệu sản xuất của giai cấp tư sản, mà dùng chính sách chuộc lại và trả dần dưới hình thức định tức. Về chính trị, chúng ta vẫn coi tư sản dân tộc là một thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Trong quá trình cải tạo hoà bình theo hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta chú trọng kết hợp các biện pháp kinh tế, hành chính và giáo dục, biến những người tư sản thành những người lao động. Đây là một quá trình đấu tranh giai cấp gay go, tức tạp; là quá trình hạn chế, đánh lùi và cuối cùng xoá bỏ hoàn toàn sự bóc lột tư bản chủ nghĩa của giai cấp tư sản dân tộc.

Đi đôi với chính sách chuộc lại, Đảng và Nhà nước còn chú ý sắp xếp công ăn việc làm cho người tư sản trong các xí nghiệp, tức là tạo điều kiện cho họ trở thành người lao động.

Đến cuối năm 1960, đã có 97% số hộ tư sản vào công tư hơn doanh. Cùng thời gian này, có 87,9% số thợ thủ công và 45% số hộ tiểu thương tham gia các hình thức hợp tác xã.

Kết quả cải tạo xã hội chủ nghĩa đã đưa đến những biến đổi về chất trong xã hội miền Bắc. Quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa được xác lập và về cơ bản đã xoá bỏ được chế độ người bóc lột người. Tiềm lực mọi mặt của miền Bắc được tăng cường, bảo đảm cho miền Bắc trở thành hậu phương vững chắc của cách mạng miền Nam và kháng chiến chống Mĩ , cứu nước.

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện cải tạo, chúng ta đã phạm phải những sai lầm nghiêm trọng về chủ trướng, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện. Chúng ta đã đồng nhất việc cải tạo với việc xoá bỏ các thành phần kinh tế cá thể, thủ tiêu nền kinh tế nhiều thành phần. Mặt khác, do tư tưởng chủ quan, nóng vội trong quá trình vận động hợp tác hoá nông nghiệp, chúng ta đã vi phạm nguyên tắc tự nguyện đối với nông dân.

Cùng với nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa, trong thời kì 1958 - 1960, chúng ta cũng đạt được nhiều thành tựu trên lĩnh vực xây dựng và phát triển kinh tế, văn hoá. Nhà nước tập trung phần lớn số vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản trong công nghiệp.

Trong ba năm cải tạo và phát triển kinh tế (1958 - 1960), mức đầu tư vào công nghiệp tăng gấp 3 lần so với ba năm trước (1955 - 1957). Vì thế, từ 97 xí nghiệp quốc doanh trong năm 1957, đến năm 1960 đã tăng lên 172 xí nghiệp do Trung ương quản lí và trên 500 xí nghiệp do địa phương quản lí. Trong tổng giá trị sản lượng công nghiệp năm 1960, công nghiệp quốc doanh chiếm 89,9%. Thành phần quốc doanh trong nông nghiệp cũng tăng lên: Từ 16 nông trường quốc doanh trong năm 1957, đến năm 1960 đã có 59 cơ sở. Tốc độ phát triển sản xuất được giữ vững. Trong ba năm, dù dầu năm 1960 có thiên tai lớn, nhưng sản xuất nông nghiệp tăng bình quân hằng năm là 5,6%; sản xuất công nghiệp tăng bình quân 21,7%. Công nghiệp địa phương tăng gấp 10 lần so với năm 1957. Công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm tăng 60,4%. Phần lớn hàng tiêu dùng trước đây phải nhập ngoại, đến lúc này miền Bắc đã tự cung cấp cho nhu cầu trong nước. Hệ thống các ngành công nghiệp nặng (điện lực, luyện kim, hoá chất...) bắt đầu được xây dựng.

Ngành Thương nghiệp xã hội chủ nghĩa phát triển khá nhanh.

Năm 1956, miền Bắc chỉ có 7 cơ sở hợp tác xã với 258.062 xã viên, đến cuối năm 1959, số hợp tác xã mua bán lên tới 258 cơ sở, bao gồm trên 4.000 cửa hàng và tổ thu mua ở khắp các tỉnh, với 1 500.000 xã viên. Từ một Sở mậu dịch quốc doanh trong kháng chiến chống Pháp, dấn năm 1959, đã có 12 Tổng công ty chuyên nghiệp, bao gồm 1 .400 cửa hàng.

Bên cạnh những thành tựu trong việc cải tạo và phát triển kinh tế theo hướng xã hội chủ nghĩa, trong ba năm (1958 - 1960), nhân dân miền Bắc còn đạt được nhiều thành quả to lớn về văn hoá, giáo dục, y tế.

Những cơ sở nghiên cứu di sản văn hoá, nghệ thuật của dân tộc được xây dựng. Công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ nghệ thuật cũng như công tác bảo tồn các di tích lịch sử và văn hoá được chú trọng.

Trên mặt trận giáo dục, công tác thanh toán nạn mù chữ được đẩy mạnh. Đến cuối năm 1960, miền Bắc đã căn bản xoá bỏ được nạn mù chữ cho những người dưới 50 tuổi. Trên cơ sở đó, công tác bổ túc văn hoá phát triển mạnh mẽ, tiến tới thực hiện phổ cập giáo dục cấp I cho toàn dân, trước hết là trong cán bộ và thanh niên. Giáo dục phổ thông phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng. Đến cuối năm 1960, số học sinh phổ thông tăng gấp 2 lần so với năm 1957; số học sinh trung học chuyên nghiệp và đại học đều tăng gấp 4 lần. ở các địa phương miền núi, các trường, lớp phổ thông các cấp cũng phát triển vượt bậc. Các dân tộc thiểu số (Thái, Tày, Nùng, Hmông) được Nhà nước giúp đỡ, đã cải tiến hoặc xây dựng chữ viết riêng).

Công tác y tế có nhiều tiến bộ lớn. Chúng ta đã đạt được một số thành tựu mới trong lĩnh vực nghiên cứu y học. Cơ sở y tế (bệnh viện, lệnh xá, trạm xá, cơ sở hộ sinh) tăng gấp 11 lần so với năm 1955.

Đời sống vật chất và văn hoá tinh thần của nhân dân miền Bắc được cải thiện rõ rệt. Trong thời gian từ năm 1957 đến năm 1959, thu nhập quốc dân bình quân theo đầu người tăng 19,3%; tiền lương thực tế của công nhân viên chức tăng 33%; thu nhập bình quân của nông dân tăng 14,8%. Sức mua bình quân theo đầu người tăng 66,2% so với năm 1955.

Những thành tựu đạt được cùng với những biến đổi sâu sắc trong đời sống kinh tế - xã hội miền Bắc được phản ánh trong Hiến pháp xã hội chủ nghĩa đầu tiên ở nước ta, được Quốc hội thông qua ngày 31-12-1959. Ngày 1-1-1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí Sắc lệnh công bố Hiến pháp mới. Việc ban hành Hiến pháp mới xuất phát từ thực tiễn và yêu cầu của cách mạng.

Sau khi giành được chính quyền, ngày 9-1 1-1946, Quốc hội khoá I đã thông qua Hiến pháp, tạo cơ sở pháp lí vững chắc cho Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Đây là bản Hiến pháp đầu tiên khẳng định một chính quyền của nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo.

Sau ngày hoà bình lập lại, cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới. Nhà nước dân chủ nhân dân ở miền Bắc chuyển sang chức năng, nhiệm vụ chuyên chính vô sản. Trải qua hai thời kì: Khôi phục kinh tế (1955 - 1957) và kế hoạch ba năm cải tạo xã hội chủ nghĩa (1958 - 1960), mọi mặt trong đời sống xã hội miền Bắc có nhiều chuyển biến lớn lao. Cơ cấu xã hội miền Bắc có nhiều thay đổi rất căn bản (giai cấp địa chủ phong kiến bị đánh đổ, giai cấp tư sản dân tộc được cải tạo theo hướng xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân lớn mạnh, giai cấp nông dân đang tích cực đi vào con đường hợp tác hoá, tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa hình thành và ngày càng phát huy vai trò quan trọng trong cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật).

"Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp dân chủ đầu tiên của nước ta, thích hợp với tình hình và nhiệm vụ cách mạng trong thời kì đó. Nó đã hoàn thành sứ mệnh của nó. Nhưng so với tình hình mới và nhiệm vụ cách mạng mới hiện nay thì nó không thích hợp nữa"

Là đạo luật cơ bản của Nhà nước ta, bản Hiến pháp đã bảo đảm một chế độ dân chủ thực sự. Nó xác nhận địa vị làm chủ đất nước của nhân dân: "Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đều thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân". Mọi quyền lợi và nghĩa vụ của người công dân (quyền bình đẳng nam nữ, bình đẳng dân tộc, bình đẳng trước pháp luật, tự do ngôn luận, tự do báo chí, hội họp, quyền làm việc, quyền nghỉ ngơi, quyền ứng cử, bầu cử...) được quy định rõ trong Hiến pháp và nhấn mạnh: "Nhà nước bảo đảm những điều kiện vật chất cần thiết để công dân được hưởng các quyền đó ".

Hiến pháp năm 1960 khẳng định ý chí và nguyện vọng của nhan dân ta là kiên quyết xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, nhằm xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh; đồng thời nó đặt cơ sở cho việc xây dựng một pháp chế xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

 

III- Miền Nam đấu tranh chống chế độ Mĩ – Diệm, giữ gìn và xây dựng lực lượng, tiến tới "Đồng khởi tig” (1954-1960)

Sẵn có dã tâm từ lâu, lợi dụng cơ hội Pháp bại trận, đế quốc Mĩ từng bước gạt Pháp để độc chiếm miền Nam Việt Nam.

Ngay từ trước khi Hiệp định Giơnevơ được kí kết, ngày 7-7- 1954, Mĩ buộc Pháp truất bỏ Bửu Lộc ra khỏi chức Thủ tướng chính phủ bù nhìn để cho Ngô Đình Diệm lên thay. Tháng 9- 1954, Mĩ quyết định viện trợ thẳng cho Diệm không qua tay Pháp. Tháng 11-1954, Chính phủ Mĩ cử Tướng Côlin - Quyền Tổng tham mưu trưởng lục quân Mĩ và là đại diện Mĩ ở Uỷ ban quân sự khối Bắc Đại Tây Dương sang làm đại sứ tại miền Nam Việt Nam. Côlin mang theo một kế hoạch gồm 6 điểm:

Trước sức ép của Mĩ , ngày 13-12-1954, Pháp buộc phải kí với Mĩ bản hiệp ước giao trách nhiệm huấn luyện và trang bị quân ngụy miền Nam cho Mĩ . Ngày 19-12-1954, Pháp kí hiệp định trao quyền hành chính, chính trị ở miền Nam cho Ngô Đình Diệm. Giữa năm 1955, Chính phủ Pháp tuyên bố chấm dứt chế độ cao uỷ ở miền Nam Việt Nam. Ngày 14-4-1956, Pháp gửi cho hai đồng Chủ tịch Hội nghị Giơnevơ (Liên Xô và Anh) thông báo quân đội Pháp sẽ rút khỏi Việt Nam và kể từ ngày 28- 4-1956, nước Pháp không còn trách nhiệm thi hành Hiệp định Giơnevơ. Ngày 30-4-1956, đơn vị cuối cùng của thực dân Pháp rút khỏi miền Nam. Đến đây, Pháp hoàn toàn rũ bỏ trách nhiệm một bên thực hiện các điều khoản của Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương. Cũng từ đây, Diệm tiến hành ráo riết cuộc thanh lọc, nắm quân đội, xây dựng miền Nam thành một "quốc gia vững mạnh" của "thế giới tự do", thành một tiền đồn chống cộng ở Đông Nam Á.

Để tạo chỗ dựa, Diệm cho thành lập các tổ chức chính trị phản động, đáng chú ý là “Đảng Cần lao nhân vị" (do Ngô Đình Nhu cầm đầu), "Phong trào cách mạng quốc gia", "Thanh niên cộng hoà", "Phụ nữ liên đới". Những tổ chức này thu nhận các phần tử phản động trong các giai cấp địa chủ, tư sản, Thiên Chúa giáo và những phần tử có hận thù với cách mạng.

Tuy được Mĩ viện trợ, giúp đỡ, nhưng từ sau Hiệp định Giơnevơ, chính quyền Diệm vẫn bị uy hiếp từ nhiều phía: Các phần tử thân Pháp, nhất là các sĩ quan cấp tướng trong hàng ngũ quân đội Liên hiệp Pháp.

Các giáo phái Cao Đài, Hoà Hảo, Bình Xuyên ở Nam Bộ, có lực lượng vũ trang riêng, đang kiểm soát nhiều vùng, kể cả Sài Gòn - Chợ Lớn.

- Lực lượng cách mạng của nhân dân tồn tại khắp các thôn, xã trên toàn miền Nam. Đây là lực lượng đối kháng lớn nhất, đe doạ sự tồn tại của chính quyền Mĩ - Diệm.

Để đối phó với tình hình trên, Diệm đưa ra chiêu bài "Đả thực " - thực chất là gạt Pháp để cho Mĩ độc chiếm miền Nam, "Bài phong " - thực chất là gạt Bảo Đại ra khỏi ngôi Quốc trưởng để cho Diệm thu tóm mọi quyền hành trong tay, "Chống cộng " - thực chất là chống nhân dân, chống tất cả những ai tán thành thống nhất đất nước. Diệm tiếp tục gạt các phần tử thân Pháp ra khỏi bộ máy chính quyền và các cấp chỉ huy quân đội.

Thực tế từ sau Hiệp định Giơnevơ, ở miền Nam Việt Nam đã diễn ra cuộc tranh giành quyền lợi giữa chủ nghĩa thực dân kiểu mới của đế quốc Mĩ với chủ nghĩa thực dân kiểu cũ của thực dân Pháp.

Đầu tháng 4-1955, Mĩ - Diệm tập trung lực lượng mở các cuộc hành quân tiêu diệt lực lượng vũ trang Bình Xuyên. Tiếp đó, bằng thủ đoạn dụ dỗ, mua chuộc kết hợp với tiến công quân sự, ngụy quyền Diệm đã tiêu diệt và làm tan rã lực lượng vũ trang Hoà Hảo, Cao Đài.

Sau khi dẹp tan lực lượng vũ trang của ba giáo phái, Diệm lo cải tổ chính phủ. Ngày 23-10-1955, chúng tổ chức "Trưng cầu dân ý”, phế truất Bảo Đại và Diệm tự xưng Tổng thống Việt Nam Cộng hoà. Ngày 4-3-1956, dưới sự chỉ đạo của Mĩ , Diệm tổ chức bầu “quốc hội" riêng rẽ và ngày 26-10-1956, ban bố "Hiến pháp Việt Nam cộng hoà ". Đây là việc làm hoàn toàn bất hợp pháp và trái với Hiệp định Giơnevơ, nhằm biến miền Nam Việt Nam thành một quốc gia riêng biệt.

Cùng với việc xây dựng chính quyền trung ương, Mĩ - Diệm ra sức củng cố chính quyền ở cấp cơ sở, bằng cách bổ nhiệm bọn tay chân làm xã trưởng, ấp trưởng và lập các tổ chức quần chúng trá hình, như "Liên gia tương trợ", "Nhân dân tự vệ đoàn", "Ngũ gia liên bảo" để kìm kẹp, khống chế nhân dân.

Như vậy, từ sau năm 1954, bằng những thủ đoạn tinh vi, trắng trợn và rất xảo quyệt, đế quốc Mĩ đã thực hiện được âm mưu hất cẳng Pháp cùng bọn tay sai của Pháp, độc chiếm miền Nam. Một chính quyền tay sai mới, cực kì phản động, hiếu chiến và rất trung thành với đế quốc Mĩ , do Ngô Đình Diệm cầm đầu, được thiết lập. Chúng đại diện cho quyền lợi của giai cấp địa chủ và tư sản mại bản -một thế lực phản động đã bị cách mạng đánh đổ, được Mĩ nâng dậy, nên có tư tưởng phục thù rất sâu sắc. Miền Nam Việt Nam từ chỗ là thuộc địa kiểu cũ của thực dân Pháp, trở thành thuộc địa kiểu mới của đế quốc Mĩ .

Chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mĩ và chủ nghĩa kiểu cũ của thực dân Pháp không khác nhau về bản chất, chỉ khác nhau về hình thức cai trị và thủ đoạn bóc lột. Với chủ nghĩa thực dân kiểu mới, đế quốc Mĩ không đặt bộ máy cai trị trực tiếp như thực dân Pháp trước đây, mà dùng chính quyền tay sai, với một hệ thống cố vấn dày đặc. Về thủ đoạn bóc lột, chúng thông qua "viện trợ” quân sự và "thương mại hoá", dùng sức mạnh quân sự và kinh tế để nắm chặt miền Nam. Bao trùm lên bộ máy chính quyền tay sai là toà Đại sứ Mĩ gồm hàng ngàn nhân viên các loại, tổ chức thành nhiều cơ quan cai trị. Trên thực tế, toà Đại sứ Mĩ không khác gì Phủ Toàn quyền Đông Dương trước đây.

"Việt Nam cộng hoà " của tập đoàn Diệm, trên thực tế, chỉ là một thuộc địa của đế quốc Mĩ , tức là thị trường tiêu thụ hàng hoá thừa ế, là nơi đầu tư khai thác tài nguyên khoáng sản và bóc lột nhân công rẻ mạt.

Tuy nhiên, trong những năm 1954 - 1959, để nhanh chóng thiết lập một phòng tuyến ngăn chặn phong trào cách mạng, hoạt động của đế quốc Mĩ ở miền Nam nước ta chủ yếu nghiêng về các hoạt động nhằm xây dựng miền Nam thành một căn cứ quân sự. Để tạo ra cơ sở pháp lí mới (giả tạo) cho những hoạt động vũ trang ở miền Nam Việt Nam, đế quốc Mĩ đã kí với Diệm các hiệp ước quân sự. Trong số đó, có ba hiệp ước đáng chú ý: - Hiệp ước mạo danh "Hợp tác kinh tê" được kí dưới hình thức trao đổi văn thư giữa Mĩ và Diệm ngày 21-2-1955 và 7-3-1955.

- Hiệp ước thạo danh "Hợp tác kinh tế" được kí kết dưới hình thức trao đổi văn thư giữa Mĩ và Diệm ngày 22, 23-4-1955 và 24, 25-6-1955.

- Hiệp ước mạo danh ' Thu hồi vũ khí trang bị của viện trợ quân sự Mĩ ", được kí dưới hình thức trao đổi văn thư giữa Mĩ và Diệm ngày 1-3 và 15-5-1955.

Dựa vào các hiệp ước trên, đế quốc Mĩ không ngừng đưa nhân viên, cố vấn quân sự vào miền Nam Việt Nam.

Phái đoàn viện trợ quân sự (MAAG: Military Aid Advisory group) thành lập từ trong thời kì Pháp tiến hành chiến tranh xâm lược Đông Dương, lẽ ra phải giải tán sau ngày kí Hiệp định Giơnevơ, nhưng trái lại, nó càng tăng lên cả số lượng và vai trò.

Từ chỗ có 200 nhân viên sau ngày đình chiến, đến giữa năm 1961, đã lên tới 3.500 tên, gồm đủ các ngành hải, lục, không quân. Từ chỗ chỉ làm nhiệm vụ kiểm soát việc sử dụng viện trợ, nó đã trở thành một bộ máy trực tiếp điều khiển trang bị vũ khí, huấn luyện, chỉ đạo kĩ thuật và chỉ đạo tác chiến.

Bên cạnh phái đoàn MAAG, còn có phái đoàn Tổ chức, huấn luyện, kiểm tra (TRIM: Training Réorganisation Inspection Mission), phái đoàn Huấn luyện tác chiến (CATO: Combat Army Training Organ).

Các loại vũ khí và phương tiện chiến tranh do Mĩ đưa vào miền Nam ngày càng tăng. Nếu tính giá trị, từ năm 1955 đến năm 1960, tổng số vũ khí và phương tiện chiến tranh do Mĩ đưa vào miền Nam là 1 5 tỉ đô la.

Hàng loạt căn cứ không quân được xây dựng khắp miền Nam. Các quân cảng Nhà Bè, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang...

được mở rộng và trang bị hiện đại. Nối liền các căn cứ không quân và lục quân là hệ thống đường giao thông chiến lược hiện đại.

Đến tháng 6-1955, Mĩ đã xây dựng cho ngụy quyền Diệm một đội quân dưới quyền điều khiển trực tiếp của Mĩ gồm 10 sư đoàn bộ binh, 17 tiểu đoàn pháo binh, 5 tiểu đoàn xe tăng, thiết giáp và 54.000 quân địa phương. Mĩ - Diệm sử dụng đội quân này trước mắt nhằm tiêu diệt phong trào cách mạng của nhân dân miền Nam, tiến tới thực hiện giấc mộng "lấp sông Bến Hải", vượt vĩ tuyến 17", "Bắc tiến".

Về kinh tế, một mặt chính quyền Diệm thi hành một loạt chính sách và biện pháp nhằm kìm hãm và bóp nghẹt sự phát triển của các ngành kinh tế dân tộc; mặt khác chúng ưu tiên cho Mĩ và phe Mĩ đưa hàng thừa ế vào miền Nam, làm cho kinh tế dân tộc bị lũng đoạn và phụ thuộc vào Mĩ .

Trong nông nghiệp, chúng ráo riết thực hiện chương trình "cải cách điền địa". Chúng đưa ra đạo dụ số 2 (8-l-1955) và đạo dụ số 7 (5-2-1955) nhằm tước đoạt thành quả về ruộng đất mà cách mạng đã đem lại cho nông dân, khôi phục quyền chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ phong kiến. Đồng thời, chúng cũng đưa ra đạo dụ số 57 (22-l0-1955) quy định phần ruộng đất đem phân phối cho nông dân là những ruộng bỏ hoang và đất "truất hữu” của những địa chủ có trên 100 mẫu (riêng đối với những địa chủ có trên 100 mẫu mà chuyển sang trồng cây công nghiệp hoặc chăn nuôi, thì không bị "truất hữu”).

Sau khi thiết lập dược quyền kiểm soát trên toàn bộ miền Nam, từ tháng 4-1955 đến tháng 5-1956, Mĩ - Diệm phát động “chiến dịch tố cộng " giai đoạn I, gọi là giai đoạn mở rộng diện để gây xáo trộn và phát hiện cộng sản. Để phụ trách, theo dõi và rút kinh nghiệm tố cộng, diệt cộng, chính quyền Diệm cho thành lập Phủ đặc uỷ công dân vụ (3-1955) và Hội đồng chỉ đạo tố cộng. Trên cơ sở tăng cường bộ máy đàn áp, Mĩ - ngụy liên tiếp tổ chức các chiến dịch khủng bố, tàn sát lực lượng yêu nước.

Tháng 2-1955, Diệm mở chiến dịch Phan Chu Trinh, đánh phá thí điểm các tỉnh Trung Bộ, trọng điểm là tỉnh Quảng Nam.

Tháng 4-1955, chúng mở chiến dịch giải phóng, đánh phá Quảng Ngài và Bắc Bình Định.

Tháng 5-1955, chúng mở chiến dịch Trịnh Minh Thế, đánh phá toàn diện các tỉnh Liên khu V, v.v...

Trong các chiến dịch tố cộng, diệt cộng, Mĩ - ngụy đã huy động gần như toàn bộ lực lượng cảnh sát, mật vụ và một bộ phận quân đội. Chúng nêu khẩu hiệu hành động: “Tiêu diệt cán bộ nằm vùng ", "Tiêu diệt cộng sản tận gốc ", "Thà giết nhầm còn hơn bỏ sót” , nhằm kích thích quân đội, cảnh sát và những tên tay sai ác ôn điên cuồng đánh phá cơ sở cách mạng, giết hại những người yêu nước những người tán thành đấu tranh thống nhất đất nước. Khoảng 4000 tên ác ôn thuộc Phủ đặc uỷ công dân vụ và 600 tên cán bộ tâm lí chiến cùng các lực lượng cảnh sát miền Trung Trung Bộ đã gây ra các vụ thảm sát dã man ở nhiều nơi.

Tháng 9-1954, Mĩ - Diệm chôn sống 21 đồng bào ta ở Chợ Được (Quảng Nam). Tháng 1-1955, chúng dìm 42 người yêu nước xuống đập Vĩnh Trinh (Quảng Nam). Tháng 7-1955, chúng gây ra vụ triệt hạ Hướng Điền (Quảng Trị), giết hại một cách dã man một lúc 92 dân thường (trong đó có 31 trẻ em).

Cùng thời gian này, Mĩ - Diệm đem quân đánh phá ác liệt huyện Đại Lộc (Quảng Nam), bắt giam, tra tấn và giết chết 500 đồng bào ta.

Bằng những chiến dịch khủng bố, tàn sát, trên thực tế Mĩ - Diệm đã gây ra cuộc chiến tranh một phía. Đây là một kiểu chiến tranh chỉ do một bên Mĩ -Diệm tiến hành và được xem như một chiến lược của Mĩ ở miền Nam việt Nam từ sau Hiệp định Giơnevơ đến cuối năm 1959.

Trên toàn miền Nam lúc này, cuộc đấu tranh của nhân dân ta trải qua những năm tháng vô cùng khó khăn, ác liệt. Trước sức đánh phá của địch qua nhiều đợt tố cộng, diệt cộng, cách mạng miền Nam đã chịu những tổn thất nặng nề chưa từng có.Trong bốn năm (1955 - 1958), cả miền Nam tổn thất 9110 cán bộ, đảng viên. ở Nam Bộ, khoảng 7 vạn cán bộ, đảng viên bị địch giết; gần 90 vạn cán bộ, nhân dân bị bắt và bị tù đày; gần 20 vạn người bị tra tấn thành tàn tật, chỉ còn 5.000 so với 60.000 đảng viên trước đó. Tỉnh Bến Tre chỉ còn 162 đảng viên; Tiền Giang còn 92; Gia Định, Biên Hoà, mỗi nơi chỉ còn một chi bộ Đảng.

Ở khu V (gồm cả Trị - Thiên và cực Nam Trung Bộ), khoảng 40% Tỉnh uỷ viên, 60% Huyện uỷ viên, 70% Chi uỷ viên bị bắt, bị giết; có tỉnh chỉ còn 2 - 3 chi bộ; 12 huyện vùng đồng bằng không còn cơ sở Đảng. Riêng Trị - Thiên, số đảng viên từ 23.400 chỉ còn 160 người.

Bằng những thủ đoạn dã man, tàn bạo, Mĩ - Diệm hi vọng có thể khuất phục được nhân dân miền Nam. Nhưng chúng đã nhầm. Nhân dân miền Nam cùng với toàn thể dân tộc đã từng vùng dậy đập tan ách thống trị của chủ nghĩa thực dân Pháp để giành quyền làm chủ. Ngay sau đó, đồng bào miền Nam lại đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược để bảo vệ thành quả của Cách mạng tháng Tám. Một dân tộc như vậy không bao giờ chịu cúi đầu làm nô lệ cho chủ nghĩa thực dân một lần nữa.

Tình hình quốc tế và trong nước cũng có nhiều chuyển biến thuận lợi cho ta. Các lực lượng cách mạng trên thế giới đang ở thế tấn công vào chủ nghĩa đế quốc. Miền Bắc đã hoàn toàn giải phóng và đang bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Tuy nhiên, do phải đối mặt với một kẻ thù có tiềm lực kinh tế và quân sự mạnh nhất trong thế giới tư bản, lại có những thủ đoạn nham hiểm, xảo quyệt, trong tình trạng đất nước bị chia cắt và sự bất hoà giữa các nước trong phe xã hội chủ nghĩa, sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, tiến tới thực hiện thống luld~ đất nước sẽ diễn ra lâu dài và vô cùng gay go, phức tạp.

sau Hiệp định Giơnevơ, phần lớn lực lượng quân đội, cán bộ, đảng viên miền Nam ra tập kết tại miền Bắc. Do đó, so sánh lực lượng hai bên ở miền Nam không có lợi cho ta.

Trong hoàn cảnh ấy, Nghị quyết Hội nghị Bộ Chính trị (9- 1954) đã nêu rõ: Cuộc đấu tranh của nhân dãn miền Nam phải từ hình thức đấu tranh vũ trang chuyển sang đấu tranh chính trị.

Nhiệm vụ trước mắt của nhân dân miền Nam là đấu tranh thực hiện đình chiến, củng cố hoà bình đòi các quyền tự do dân chủ, cải thiện dân sinh, thực hiện thống nhất tranh thủ độc lập, chống khủng bố, bảo vệ những thành quả mà quần chúng đã giành được trong thời kì kháng chiến chống Pháp.

Cán bộ, đảng viên ở miền Nam nhanh chóng rút vào hoạt động bí mật. Những cán bộ bị lộ được điều sang các địa phương khác, hoặc tạm ngừng hoạt động để che giấu lực lượng. Việc vận động ngụy quân, ngụy quyền và đưa người của ta vào hoạt động trong các tổ chức của địch được chú ý. Các tổ chức quần chúng công khai được xây dựng ở cả nông thôn và thành thị.

Theo phương hướng chỉ đạo của Trung ương, từ tháng 8, tháng 9- 1954, ta đã tổ chức quần chúng mít tinh, biểu tình, hội thảo mừng hoà bình, đòi địch không được trả thù những người kháng chiến cũ. Tại các thành phố lớn (Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng), hàng vạn người lao động, trí thức, học sinh, sinh viên tập hợp trên các đường phố, hoan nghênh Hiệp định Giơnevơ, chào đón hoà bình.

Phong trào đấu tranh chính trị nhanh chóng lan rộng khắp các tỉnh miền Trung. Tiêu biểu nhất cho phong trào đấu tranh chính từ lúc này là phong trào hoà bình Sài Gòn - Chợ Lớn ( 1- 8-1954) của đông đảo trí thức và các tầng lớp nhân dân lao động. Lãnh đạo phong trào là những trí thức yêu nước có uy tín (Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Giáo sư Phạm Huy Thông...).

Sau khi ra tuyên bố nêu rõ tôn chỉ, mục đích đấu tranh cho hoà bình ở Đông Dương được củng cố, quyền tự do dân chủ được bảo đảm, nước Việt Nam được thống nhất bằng tuyển cử tự do trong cả nước, thanh thế của phong trào ngày càng rộng lớn. Ở khắp các xưởng lớn, các trường học, khu phố... Uỷ ban bảo vệ hoà bình được thành lập và hoạt động công khai.

Nhằm dập tắt phong trào, đầu tháng 11-1954, Mĩ - Diệm ra sức khủng bố. Chúng cho tay chân lùng bắt các nhà lãnh đạo phong trào. Nhiều người tham gia phong trào bị bắt và bị tra tấn rất dã man. Từ giữa năm 1955, tuy về danh nghĩa, phong trào hoà bình Sài Gòn - Chợ Lớn không tồn tại, nhưng trên thực tế, các Uỷ ban ở cơ sở vẫn tiếp tục hoạt động dưới hình thức là những Uỷ ban cứu tế nạn nhân bị hoả hoạn và sau đó chuyển thành Uỷ ban đề phòng nạn cháy 1.

Từ năm 1955, ở miền Nam lại bùng lên phong trào đòi lập lại quan hệ bình thường hai miền Nam-Bac. Điều này nói lên nguyện vọng tha thiết của nhân dân miền Nam là hoà bình và thống nhất đất nước. Nó giáng một đòn mạnh mẽ vào âm mưu chia cắt lâu dài nước ta của tập đoàn Mĩ - Diệm.

Song song với phong trào bảo vệ hoà bình và đòi hiệp thương tổng tuyển cử, phong trào đấu tranh đòi tự do dân chủ và cải thiện đời sống cũng ngày càng lan rộng. Tham gia phong trào này không chỉ có quần chúng lao động, mà còn có đông đảo các tầng lớp trí thức, học sinh, sinh viên, các nhà công thương, tu hành và một số tư sản, địa chủ, nhân viên ngụy quân, ngụy quyền và binh lính. Trong các phong trào đó giai cấp công nhân là lực lượng đi tiên phong. Tính đến cuối năm 1959, đã có gần 1.500 cuộc đấu tranh của công nhân; trong đó có 27 cuộc đấu tranh lớn, tiêu biểu là hai cuộc biểu tình tuần hành khổng lồ của công nhân và nhân dân lao động Sài Gòn trong ngày 1-5-1956

gồm 200.000 người và ngày 1-5-1958 gồm 500.000 người tham gia 1. Giai cấp nông dân miền Nam cũng tổ chức đấu tranh để bảo vệ những quyền lợi đã giành được trong kháng chiến, đấu tranh chống chương trình cải cách điền địa, đòi quyền lưu canh, chống cướp đất, đuổi nhà, dồn làng . . . Riêng ở miền Trung và miền Tây Nam Bộ đã nổ ra 3.000 vụ đấu tranh về ruộng đất.

Phong trào diễn ra dưới nhiều hình thức phong phú, như biểu tình, đưa đơn kiến nghị; có nơi đồng bào vũ trang chống lại bọn tay chân của Diệm.

Gay go, quyết liệt và đẫm máu nhất là phong trào đấu tranh chống chiến dịch "tố cộng ", "diệt cộng ". Trong chiến dịch "tố cộng ", diệt cộng ", Mĩ - Diệm huy động lực lượng quân đội, cảnh sát, bảo an, dân vệ càn quét, đánh phá dữ dội ở cả nông thôn, thành thị và các khu căn cứ. Các gia đình kháng chiến cũ, gia đình có người đi tập kết là đối tượng chủ yếu của "tố cộng".

Chúng dùng mọi thủ đoạn tra tấn cực hình kết hợp với thủ đoạn thâm hiểm để buộc mọi người dân phải nói xấu cách mạng, nói xấu cộng sản, thừa nhận bọn phản quốc tay sai của Mĩ và từ bỏ cách mạng.

Nhân dân miền Nam đã tỏ rõ ý chí kiên cường, không chịu khuất phục, tỏ rõ lòng trung thành với cách mạng. Bằng lí lẽ đanh thép và khôn khéo quần chúng đã vạch trần bộ mặt bán nước, hại dân của tập đoàn tay sai Ngô Đình Diệm, bảo vệ và làm sáng tỏ chủ nghĩa cách mạng. Trong những năm tháng ác liệt nhất, hàng ngàn tấm gương sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng xuất hiện đã giữ vững niềm tin cho quần chúng, cổ vũ họ đấu tranh và làm cho Đảng ngày càng bám rễ vững chắc trong nhân dân. Đồng bào miền Nam vẫn che giấu, nuôi dưỡng cán bộ, đảng viên, làm giao thông liên lạc, chuyển công văn...

âm mưu cơ bản của Mĩ - Diệm trong chiến dịch "tô cộng ", diệt cộng " bị thất bại. Tên chủ tịch Hội đồng chỉ đạo tố cộng Trung ương (Trần Chánh Thành) đã thú nhận: “đây là một thất bại lớn vì phong trào chất vấn rộng rãi, hướng dẫn viên của chúng ta không giải quyết được ".

Trong hai năm đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ, nhân dân miền Nam luôn nêu cao ngọn cờ hoà bình, thống nhất, dân chủ. Với nhiều hình thức phong phú, đấu tranh bằng lí lẽ, bằng pháp lí của Hiệp định Giơnevơ, bằng lực lượng quần chúng đông đảo đồng bào ta đã nêu cao tinh thần yêu nước và ý chí đoàn kết thống nhất của mình, liên tục phản công và tiến công địch. Ngược lại, tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm ngày càng lộ rõ bộ mặt độc tài phát xít, phản dân tộc, làm tay sai cho đế quốc Mĩ , cố tình phá hoại Hiệp định Giơnevơ.

Thực tiễn hai năm đấu tranh cho thấy, đối với kẻ thù của dân tộc và giai cấp, không thể dùng đấu tranh chính trị đơn thuần như trước, mà phải dùng bạo lực cách mạng. Yêu cầu của cách mạng cũng như nguyện vọng của đồng bào miền Nam lúc này đòi hỏi phải chuyển sang hình thức đấu tranh cao hơn.

Tháng 6-1956, Bộ Chính trị ra nghị quyết về "Tình hình và nhiệm vụ cách mạng miền Nam", nêu rõ: "Vấn đề hết sức quan trọng là phải tranh thủ xây dựng lực lượng cách mạng". Nghị quyết nhấn mạnh: Tuy "hình thức đấu tranh của ta hiện nay là đấu tranh chính trị, không phải là đấu tranh vũ trang" 3, nhưng "như thế không có nghĩa là không dùng vũ trang tự vệ trong những hoàn cảnh nhất định". Vì vậy Bộ Chính trị quyết định phải "củng cố các lực lượng vũ trang và bán vũ trang hiện có và xây dựng các căn cứ làm chỗ dựa. Đồng thời xây dựng cơ sở quần chúng vững mạnh làm điều kiện căn bản để duy trì và phát triển lực lượng vũ trang".

Tháng 8-1956, đồng chí Lê Duẩn - Uỷ viên Bộ Chính trị, đang công tác tại miền Nam - dựa vào sự phân tích khoa học tình hình chính trị, xã hội miền Nam, đã soạn thảo Đề cương cách mạng miền Nam. Đây là một văn kiện quan trọng, chỉ rõ con đường cách mạng là con đường duy nhất đúng của nhân dân ta ở miền Nam tiến tới lật đổ chính quyền Mĩ - Diệm, thành lập chính quyền cách mạng. Bản Đề cương nhấn mạnh: "Nhiệm vụ của cách mạng miền Nam là trực tiếp đánh đổ chính quyền độc tài phát xít Ngô Đình Diệm, tay sai của Mĩ , giải phóng nhân dân miền Nam khỏi ách đế quốc phong kiến, thiết lập ở miền Nam một chính quyền liên hiệp có tính chất dân tộc, dân chủ để cùng với miền Bắc thực hiện một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất độc lập và dân chủ nhân dân".

Những nghị quyết trên đây đã kịp thời soi sáng cho đảng viên, cán bộ và nhân dân miền Nam vượt qua chặng đường'íấu tranh cực kì ác liệt, góp phần đưa phong trào cách mạng tiến lên một bước phát triển mới. Riêng năm 1957, có 2 triệu lượt người tham gia đấu tranh chính trị; năm 1958 có 3,7 triệu lượt và bước sang năm 1959 có gần 5 triệu lượt người tham gia. Những cuộc đấu tranh chống địch khủng bố, chống trả thù những người kháng chiến cũ, chống "tố cộng ", "diệt cộng "; chống cướp đất, đuổi nhà... diễn ra dai dẳng, quyết liệt ở khắp nơi. Từ trong phong trào, trên thực tế, một mặt trận thống nhất chống Mĩ - Diệm đã hình thành.

Cùng với sự phát triển phong trào đấu tranh chính trị trong các tầng lớp nhân dân, phong trào đấu tranh vũ trang tự vệ, trừ gian, diệt ác cũng bắt đầu phát triển. Các đơn vị vũ trang tập trung được xây dựng ở nhiều nơi. Căn cứ địa được hình thành phần lớn từ các vùng căn cứ thời kì kháng chiến chống Pháp: Chiến khu Đ 1, Đồng Tháp, Ư Minh, Tây Nguyên...

Những hoạt động vũ trang của quân và dân miền Nam có tác dụng rất lớn, gây cho địch nhiều khó khăn, trở ngại trong việc củng cố chính quyền ở thôn, xã; hạn chế những hành động cướp bóc, vơ vét của địch và bảo vệ quyền lợi ruộng đất cho nông dân. Một số tên tay sai ác ôn phải chùn lại, địa chủ ngán sợ, không dám trắng trợn cướp đất tăng tô. Trên thực tế, việc trừ gian, diệt ác trở thành một hình thức đấu tranh quan trọng và cần thiết để giữ vững phong trào, bảo vệ cơ sở cách mạng. Đặc biệt, từ năm 1958, hoạt động vũ trang tự vệ trở thành phổ biến, có tác dụng hỗ trợ cho phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng nhân dân.

Trước sự phát triển mạnh mẽ phong trào đấu tranh của nhân dân, Mĩ -Diệm điên cuồng khủng bố. Tháng 5-1957, Diệm ban hành đạo luật đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật để cho bọn tay chân tự do chém giết. Không khí khủng bố, chết chóc bao trùm khắp nơi. Cán bộ, đảng viên và quần chúng tích cực bị săn lùng ráo riết. Mĩ - Diệm vẫn tiếp tục đẩy mạnh các chiến dịch "tố cộng ", "diệt cộng ", dồn dân lập "khu dinh điền ", "khu trù mật”. Các cuộc đánh phá, khủng bố của chính quyền Diệm đối với nhân dân ta đã đến đỉnh cao về mức độ khốc liệt và tính chất man rợ. Ngày 1-12-1958, chúng đầu độc 6.000 người yêu nước ở nhà giam Phú Lợi (Thủ Dầu Một). Tháng 3-1959, Diệm tuyên bố đặt miền Nam trong tình trạng chiến tranh. Tháng 5- 1959, chúng lại ban hành luật phát xít "/0159"; thiết lập ba toà án quân sự đặc biệt để công khai chém giết đồng bào ta. Miền Nam Việt Nam trở thành một địa ngục trần gian mà ở đó, quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc của con người bị chà đạp một cách trắng trợn. Tình thế cách mạng ngày càng đi đến chín muồi bởi kẻ thù không thể thống trị như cũ được nữa. Nhân dân miền Nam bị đẩy vào cảnh khốn cùng. Muốn tồn tại, nhân dân miền Nam không có con đường nào khác là phải vùng dậy đấu tranh để giành quyền sống. Trong bối cảnh lịch sử ấy, từ ngày 13-1-1959, tại Hà Nội, Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá ni được khai mạc. Nghị quyết Hội nghị chỉ rõ: "Con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.

Theo tình hình cụ thể và yêu cầu hiện nay của cách mạng thì con đường đó là lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đê quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân" 1.

Như vậy, với Nghị quyết 15, Trung ương Đảng đã quyết định phát động quần chúng nhân dân, trước hết ở nông thôn, dùng đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang, tiến hành khởi nghĩa vũ trang đập tan ách kìm kẹp của Mĩ -Diệm để giành quyền làm chủ. Nghị quyết 15 có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nó đáp ứng yêu cầu bức thiết nhất của cách mạng miền Nam lúc đó, làm xoay chuyển tình thế và đưa phong trào cách mạng miền Nam thoát khỏi tình trạng nguy hiểm. Đồng thời, nó cũng đáp ứng được nguyện vọng tha thiết của nhân dân miền Nam là vùng dậy đập tan xiềng xích nô lệ để giành quyền làm chủ. Do đó, Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng nhanh chóng đi vào quần chúng và trở thành hành động quật khởi của quần chúng.

Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng ra đời trong hoàn cảnh quốc tế có nhiều khó khăn và phức tạp: Đảng Cộng sản Liên Xô không tán thành Nghị quyết 15, mà chủ trương củng cố miền Bắc, thông qua đó để đi tới thống nhất, không tiến hành khởi nghĩa vũ trang. Đảng Cộng sản Trung Quốc tán thành phương hướng chung của Nghị quyết 15, tán thành hoạt động vũ trang nhưng chỉ ở quy mô nhỏ cấp đại đội. Trong hoàn cảnh ấy, việc đề ra Nghị quyết 15 chứng tỏ kinh nghiệm dày dạn và sự trưởng thành vượt bậc của Đảng ta về lí luận cũng như về thực tiễn. Nó thể hiện tính độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng ta trong lãnh đạo cách mạng.

Ngay sau khi đề ra Nghị quyết 15, theo chỉ thị của Bộ Chính trị, tháng 5-1959, Trung ương Đảng đã lập Đoàn vận tải quân sự Trường Sơn (Đoàn 559) để tăng cường sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam. Tháng 7-1959, Trung ương quyết định tổ chức đường vận tải trên biển.

Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng ra đời giữa lúc nhân dân miền Nam "không thể sống như cũ được nữa". Do đó, nó đã làm bùng lên phong trào đồng khởi trên nhiều vùng rộng lớn.

Ở Liên khu V, từ tháng 2 đến tháng 4-1959, nhân dân huyện Vĩnh Thành (Bình Định) nổi dậy, dời làng vào rừng sâu, xây dựng làng chiến đấu. Cùng thời gian này, nhân dân huyện Bắc Ái (Ninh Thuận), huyện Đắc Lay (Kon Tum) và nhiều làng ở Đắc Lắc cũng nổi dậy phá tề, diệt ác, xây dựng làng chiến đấu chống Mĩ - Diệm. Những cuộc nổi dậy trên đây đã phá tung một mắt xích quan trọng trong hệ thống cai trị của địch ở miền Tây Trung Bộ. Trong tất cả các cuộc nổi dậy của đồng bào miền núi Liên khu V, nổi bật nhất là cuộc khởi nghĩa Trà Bồng (Quảng Ngãi vào ngày 28-8-1959. Tại đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương, khoảng 16.000 đồng bào nổi dậy đấu tranh chính trị, có sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang, quét sạch ngụy quyền ở thôn, xã, thành lập chính quyền cách mạng dưới hình thức Uỷ ban nhân dân tự quản.

Từ Trà Bồng, cuộc khởi nghĩa nhanh chóng lan rộng sang các huyện thuộc miền Tây Quảng Ngài (Sơn Hà, Minh Long, Ba Tơ). Cuộc khởi nghĩa ở Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngài diễn ra nhanh, trên địa bàn rộng (gần 5.000 km2); bao gồm 4 huyện, với 4 dân tộc (Coi, Hre, Ca Dong, Kinh) đã giành được thắng lợi to lớn. Sau khởi nghĩa, nhân dân Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi tiến hành cuộc chiến đấu ngoan cường để chống lại những cuộc càn quét, chà đi xát lại của địch. Nhờ đó, dù trong hoàn cảnh khó khăn, ác liệt, phong trào ở đây vẫn đứng vững. Thắng lợi này có sức cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng miền Trung, đồng thời cung cấp được nhiều kinh nghiệm quý báu trong việc vận dụng Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng không chỉ ở Quảng Ngài, mà cả trong toàn khu, toàn miền. Trong khi nhân dân Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi đang thu được thắng lợi, thì tại đồng bằng Nam Bộ, trên nhiều vùng rộng lớn, quần chúng cũng nổi dậy vũ trang diệt ác, phá thế kìm kẹp, làm tan rã từng mảng hệ thống ngụy quyền cơ sở. Trong phong trào nổi dậy ấy, cuộc đồng khởi ở Bến Tre là tiêu biểu nhất. Phong trào “đồng khởi” ở Bến Tre nổ ra nhiều đợt. Riêng năm 1960, có hai đợt đồng khởi: - Đợt một (17 – 25-l): Huyện Mỏ Cày được chọn làm nơi chỉ đạo, mở đầu cho phong trào nổi dậy của tỉnh.

Từ ba xã trọng điểm: Định Thủy, Phước Hiệp, Bình Khánh, cuộc nổi dậy lan sang các xã trong huyện. Khắp Mỏ Cày, ngày cũng như đêm, đều vang lên tiếng trống, mõ và tiếng nổ liên hồi xen lẫn với tiếng hò reo của quần chúng cách mạng. Với khí thế cách mạng sục sôi ấy, nhân dân, nhất là thanh niên nam, nữ, hăng hái tổ chức đội ngũ, trương cờ, vác các loại súng (súng thật súng giả), kẻo đi như nước vỡ bờ, uy hiếp tinh thần quân địch.

Phong trào “đồng khởi” từ Mỏ Cày lan sang các huyện Thành Phú, Minh Tân... Chỉ trong một tuần lễ, nhân dân 47 xã đồng loạt nổi dậy đập tan bộ máy kìm kẹp của địch, giải phóng 150

ấp, bức địch rút 47 đồn bốt. Các thôn, xã sau khi giải phóng đều mở đại hội nhân dân, lập toà án cách mạng để trừng trị những tên tay sai ác ôn, tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân cày.

Từ trong thắng lợi của phong trào “đồng khởi”, một đơn vị vũ trang đầu tiên của tỉnh Bến Tre được thành lập. Trong tình hình đó, kẻ địch không những phải đối phó với những cuộc nổi dậy của quần chúng, mà còn phải đương đầu với cuộc chiến tranh nhân dân rộng khắp, với một lực lượng vũ trang chiến đấu giỏi làm nòng cốt.

Hoảng sợ trước làn sóng cách mạng ở Bến Tre, ngày 22-3- 1960, Mĩ – Diệm huy động hơn 10.000 quân chủ lực, có tàu chiến, xe tăng yểm trợ, mở cuộc càn lớn vào ba xã trọng điểm của huyện Mỏ Cày. Chúng chia nhiều mũi bao vây, chia cắt từng khu vực, lục soát từng bụi cây, tìm diệt lực lượng vũ trang và cơ quan đầu não của tỉnh, quyết dập tắt phong trào đồng khởi ở ba xã điểm.

Nhân dân ba xã đứng trước một thử thách lớn. Ban lãnh đạo tỉnh trực tiếp chỉ huy cuộc chống càn, quyết định phát động một đợt đấu tranh chính trị với quy mô lớn, tấn công vào quận lị Mỏ Cày, đòi địch phải rút quân. Hàng ngàn quần chúng, phần lớn là phụ nữ, mang theo quần áo, chăn màn, nồi xoong, bồng bế cả con, cháu, đội khăn tang, kéo về Mỏ Cày đấu tranh chống địch càn quét.

Trước sức mạnh và lời lẽ có lí có tình của đội quân chính trị hùng hậu, kẻ thù buộc phải ra lệnh rút quân khỏi ba xã (20-4- 1960). Cuộc phản công quy mô lớn của địch vào ba xã điểm “đồng khởi” đã thất bại trước tinh thần đấu tranh kiên quyết và khéo léo với sự kết hợp ba mũi chính trị, quân sự và binh vận của nhân dân Mỏ Cày, đặc biệt là phụ nữ. Địch hoảng sợ và gọi những người phụ nữ Bến Tre tay không đánh giặc là “đội quân tóc dài” .

Qua “đồng khởi” đợt một, Bến Tre đã thể nghiệm thành công phương pháp kết hợp đấu tranh quân sự, chính trị và binh vận, nêu lên những bài học kinh nghiệm quý báu về phương pháp cách mạng cho toàn miền Nam.

Rút kinh nghiệm “đồng khởi” đợt một, Đảng bộ Bến Tre quyết định tổ chức “đồng khởi” đợt hai, với quy mô lớn hơn, vào ngày 24-9- 1960. Huyện Giồng Trộm được chọn làm trọng điểm. Chỉ trong vòng nửa ngày, nhân dân Ba Châu (Châu Phú, Châu Thời, Châu Hoà), bằng sự kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự và binh vận, đã lấy gọn được ba đồn địch, thu 60 súng mà không tốn một viên đạn, một giọt máu.

Từ thắng lợi đó, phong trào “đồng khởi” toả ra các huyện lị.

Cho đến 22-10-1960, “đồng khởi” đợt hai ở Bến Tre thu được thắng lợi to lớn: 60 đồn địch bị san phẳng, 400 địch bị giết, 48 xã được hoàn toàn giải phóng.

Từ Bến Tre, làn sóng “đồng khởi” nhanh chóng lan rộng khắp các tỉnh Nam Bộ, Tây Nguyên và một số nơi ở Trung Trung Bộ.

Nhận thấy miền Đông Nam Bộ là nơi căn cứ cách mạng được xây dựng, củng cố vững chắc, lại sớm tổ chức các đơn vị vũ trang tập trung, Xứ uỷ Nam Bộ chủ trương tổ chức một đòn tiến công quân sự, tạo điều kiện cho quần chúng nổi dậy.

Thực hiện chủ trương trên, Ban quân sự liên tỉnh miền Đông quyết định tổ chức tấn công Tua Hai, một căn cứ của một trung đoàn chính quy ngụy, cách thị xã Tây Ninh 7 km. Trận đánh bắt đầu diễn ra từ đêm 25 rạng 26-1-1960 và kết thúc nhanh chóng.

Ta diệt sao tên địch, bắt giáo dục và thả tại chỗ 500 tên khác, thu 1.500 súng các loại. Trận Tua Hai là trận đánh lớn đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam. Chiến thắng Tua Hai đánh dấu một bước phát triển mới về trình độ tổ chức, chỉ huy hoạt động tác chiến của lực lượng vũ trang cách mạng. Chiến thắng này mang ý nghĩa chính trị to lớn không chỉ hỗ trợ trực tiếp cho phong trào nổi dậy của nhân dân Tây Ninh, mà còn cổ vũ mạnh mẽ quần chúng cách mạng ở các tỉnh Nam Bộ vùng dậy giành quyền làm chủ. Cùng với chiến thắng Tua Hai, nhân dân Tây Ninh nổi dậy giải phóng 2/3 số xã trong tỉnh, nối liền với Chiến khu Dương Minh Châu thành một vùng căn cứ cách mạng rộng lớn, án ngữ phía Tây Bắc Sài Gòn – Gia Định.

Với phong trào “đồng khởi” 1959 – 1960 của nhân dân miền Nam, hệ thống kìm kẹp của Mĩ – Diệm ở thôn, xã bị tan vỡ từng mảng. Chính quyền cách mạng được thành lập dưới hình thức Uỷ ban nhân dân tự quản. Vùng giải phóng hình thành, ngày càng mở rộng, nối liền giữa các huyện, các tỉnh, tạo thành một thế liên hoàn. Trong vùng giải phóng, hầu hết ruộng đất được trả lại cho nông dân. Tính đến cuối năm 1960, khoảng 2/3 cơ cấu chính quyền địch ở cơ sở bị tan vỡ Cục tình báo trung ương Mĩ phải thú nhận: “Một thời kì hết sức nghiêm trọng đối với Tổng thống Ngô Đình Diệm và Việt Nam Cộng hoà đã ở ngay trước mắt... Trên một nửa toàn bộ vùng nông thôn nằm ở phía nam và tây nam Sài Gòn, cũng như một số vùng ở phía bắc đã nằm dưới quyền kiểm soát rất lớn của cộng sản...” 1.

Từ trong và sau thắng lợi của phong trào “đồng khởi” 1959 – 1960, khí thế cách mạng của quần chúng lên cao; lực lượng cách mạng phát triển nhanh chóng. Các đoàn thể cách mạng của nông dân, thanh niên, phụ nữ ... phát triển mạnh mẽ. ở các huyện, tỉnh, các đơn vị lực lượng vũ trang tập trung lần lượt ra đời. Các thôn, xã đều có dân quân, du kích. Hình thái lực lượng vũ trang ba thứ quân xuất hiện.

“Đồng khởi” 1959 – 1960 của nhân dân miền Nam là một đòn giáng mạnh và bất ngờ vào tập đoàn thống trị Mĩ – ngụy, làm cho chúng hết sức hoang mang, lo sợ. Hiện tượng rã ngũ, đào ngũ trong quân ngụy xuất hiện và phát triển. Mâu thuẫn giữa Mĩ và Diệm cũng như trong nội bộ chính quyền Diệm càng trở nên gay gắt, dẫn đến cuộc đảo chính mưu lật đổ Diệm – Nhu vào ngày 11-11-1960 . Cuộc đảo chính thất bại, nhưng đẩy ngụy quyền miền Nam vào thời kì khủng hoảng triền miên. Chiến lược chiến tranh một phía, một hình thức thống trị điển hình của chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mĩ, bị thất bại hoàn toàn.

Đồng khởi 1959 – 1960 đánh dấu bước phát triển nhảy vọt, chuyển cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công.

Từ trong cao trào nổi dậy mạnh mẽ của nhân dân miền Nam, ngày 20-12-1960, tại xã Tân Lập, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh, đại biểu các giai cấp, các đảng phái, các dân tộc, tôn giáo, các giới toàn miền Nam đã họp Đại hội để thành lập Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. Mặt trận chủ trương đoàn kết tất cả các tầng lớp nhân dân, các giai.cấp, các đảng phái, dân tộc, không phân biệt xu hướng chính trị, nhằm đánh đổ ách thống trị của bè lũ Mĩ – Diệm.

Xuất phát từ thực tiễn cách mạng miền Nam, Mặt trận công bố Chương trình hành động gồm 10 điểm mà nội dung cơ bản là đánh đổ chế độ độc tài, phát xít Ngô Đình Diệm, nhằm xây dựng một nước Việt Nam độc lập, dân chủ, hoà bình, trung lập, tiến tới hoà bình thống nhất nước nhà.

Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam chống ách thống trị thực dân kiểu mới của đế quốc Mĩ và tay sai. Sự ra đời của Mặt trận cùng với bản Chương trình hành động 10 điểm đã đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển của cách mạng và nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân miền Nam. Do đó chỉ trong thời gian ngắn sau khi thành lập, Mặt trận đã tập hợp đông đảo mọi tầng lớp nhân dân, trở thành một lực lượng chính trị ngày càng hùng hậu. Đây là một trong những nhân tố cơ bản góp phần quyết định thắng lợi của cách mạng trong những năm tiếp theo.

IV- Miền Bắc xây đựng bước đầu cơ sở vật chất là kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội (1961-1965)

1. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng

Bước vào năm 1960, tình hình thế giới và trong nước có nhiều chuyển biến quan trọng.

Trên thế giới, hệ thống xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu ngày càng vững mạnh, trở thành nhân tố quyết định đến sự phát triển của xã hội loài người. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa thuộc châu Á, châu Phi và Mĩ La - tinh phát triển mạnh mẽ, dẫn đến sự ra đời nhiều quốc gia độc lập...

Ở trong nước, sự nghiệp cách mạng trên cả hai miền Nam, Bắc đều có những bước tiến quan trọng. ở miền Bắc, công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công - thương nghiệp tư bản tư doanh đã đạt được những thành tựu to lớn, làm thay đổi bộ mặt xã hội. Ở miền Nam, nhân dân ta cũng giành nhiều thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống Mĩ - Diệm, đặc biệt là phong trào đồng khởi 1959 - 1960, làm thay đổi thế chiến lược phong trào cách mạng.

Sự chuyển biến tình hình thế giới và trong nước đòi hỏi Đảng phải xác định đường lối chiến lược và phương pháp cách mạng cho phù hợp.

Từ ngày 5 đến ngày 10-9-1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ Mĩ của Đảng được triệu tập tại thủ đô Hà Nội. Tham dự Đại hội có 525 đại biểu chính thức, 51 đại biểu dự khuyết thay mặt cho trên 50 vạn đảng viên trong cả nước.

Đại hội đã thảo luận và thông qua Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng do Lê Duẩn trình bày.

Báo cáo chính trị vạch rõ: Từ ngày hoà bình lập lại, cách mạng Việt Nam đã chuyển sang giai đoạn mới Miền Bắc bước vào thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục thực hiện cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân; nhiệm vụ chung của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn này là: "Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hoà bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới" 1. Báo cáo chính trị cũng khẳng định: Tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của cách mạng cả nước cũng như đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Nghị quyết Đại hội nêu lên đường lối chung của Đảng trong thời kì quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc là: "Đoàn kết toàn dân, phát huy tinh thần yêu nước nồng nàn, truyền thống phấn đấu anh dũng và lao động cần cù của nhân dân ta, đồng thời tăng cường đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa anh em do Liên Xô đứng đầu, để đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà, góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa, bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới.

Muốn đạt mục tiêu ấy, phải sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản để thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư doanh; phát triển thành phần kinh tế quốc doanh, thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lí đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ; đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng, văn hoá và kỹ thuật; biến nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa học tiên tiến"1.

Đối với cách mạng miền Nam, Đại hội chỉ rõ: "Trong sự nghiệp hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước thực hiện thống nhất nước nhà, đồng bào ta ở miền Nam có nhiệm vụ trực tiếp đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mĩ và bọn tay sai của chúng để giải phóng miền Nam. Cuộc đấu tranh cách mạng của đồng bào ta ở miền Nam còn có tác dụng ngăn chặn âm mưu của Mĩ - Diệm gây lại chiến tranh, tích cực góp phần giữ gìn hoà bình ở Đông Dương, Đông Nam Á và thế giới"2.

Cách mạng ở hai miền thuộc hai chiến lược khác nhau, nhưng do trước mắt đều thực hiện một mục tiêu chung là đấu tranh thống nhất nước nhà, cho nên có quan hệ mật thiết với nhau và thúc đẩy nhau cùng phát triển.

Đại hội đã thông qua phương hướng và nhiệm vụ của kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất (1961-1965) .

Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương mới gồm 45 uỷ viên chính thức và 28 uỷ viên dự khuyết, do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch và Lê Duẩn làm Bí thư thứ nhất. Bộ Chính trị Trung ương Đảng gồm 11 uỷ viên chính thức và 2 uỷ viên dự khuyết.

Đại hội lần thứ III của Đảng là mốc quan trọng, đánh dấu một bước phát triển trong quá trình xác định đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bác và đường lối đấu tranh thống nhất nước nhà. Nghị quyết Đại hội là ánh sáng soi đường cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân hăng hái phấn đấu, quyết tâm giành thắng lợi trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.

2- Miền Bắc thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm (1961 - 1965)

Kế hoạch 5 năm (1961 - 1965) nhằm mục tiêu phấn đấu xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện một bước công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, tiếp tục đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ của kế hoạch được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ Mĩ thông qua, bao gồm những nội dung cơ bản sau đây: Thực hiện một bước việc ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp một cách toàn diện, phát triển công nghiệp nhẹ và giao thông vận tải, tăng cường thương nghiệp quốc doanh và thương nghiệp hợp tác xã.

- Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư doanh, mở rộng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

- Nâng cao trình độ văn hoá của nhân dân, đẩy mạnh công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ.

Cải thiện thêm một bước đời sống vật chất và văn hoá tinh thần của nhân dân.

Ra sức củng cố quốc phòng, tăng cường trật tự an ninh, bảo vệ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

Kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất, về thực chất, là cuộc tấn công vào nghèo nàn và lạc hậu. Ngày 26-1-1961, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra nghị quyết về việc đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, động viên toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.

Trên toàn miền Bắc, khắp các ngành, các cấp, các giới đều dấy lên phong trào thi đua rất sôi nổi. Trong nông nghiệp có phong trào thi đua "Học tập, đuổi kịp và vượt hợp tác xã nông nghiệp Đại Phong" 1. Trong công nghiệp có phong trào thi đua "Học tập Duyên Hải, thi đua với Duyên Hải" 2. Trong thủ công nghiệp có phong trào thi đua với "Thành Công" 3. Trong quân đội có phong trào thi đua "Ba nhất” 4. Trong giáo dục có phong trào thi đua "Hai tết"5.

Ngoài ra, trong tất cả các ngành còn có phong trào thi đua phấn dấu đạt danh hiệu "Tổ, Đội Lao động xã hội chủ nghĩa", "Mỗi người làm việc bằng hai vì đồng bào miền Nam ruột thịt”...

Nhờ có sự nỗ lực thi đua của toàn Đảng, toàn dân, đến cuối năm 1964, đầu năm 1965, dù kế hoạch 5 năm phải tạm dừng, nhưng miền Bắc vẫn đạt nhiều thành tựu to lớn .

Với số vốn được Nhà nước đầu tư nhiều gấp ba lần so với

1. Ở tỉnh Quảng Binh, lá cờ đầu trong phong trào thi đua cải tiến quản lí HTX và kĩ thuật .

2. Nhà máy cơ khí ở Hải Phòng, lá cờ đầu trong phong trào thi đua hợp lí hoá sản xuất và cải tiến kĩ thuật.

3. Hợp tác xã thủ công nghiệp Thành Công ở thị xã (nay là thành phố Thanh Hoá).

4. Đạt thành tích nhiều nhất, đều nhất, giỏi nhất.

5. Dạy thật tốt, học thật tốt, ngọn cờ đầu là Trường Phổ thông cấp II Bắc Lí, huyện Lý Nhân, Hà Nam.

thời kì khôi phục kinh tế (chiếm 61,2% tổng số chi ngân sách), cơ sở vật chất bước đầu được trang bị trong các ngành kinh tế.

Nông nghiệp được coi là cơ sở để phát triển công nghiệp. Từ năm 1963 đến năm 1965, miền Bắc tiến hành cuộc vận động cải tiến quản lí hợp tác xã, cải tiến kĩ thuật. Nhiều công trình thủy lợi được xây dựng, nhiều trạm bơm, hồ chứa nước được hoàn thành. Các nông trường quốc doanh, trại thí nghiệm cây trồng và chăn nuôi được đầu tư xây dựng và phát triển. Việc sử dụng cơ khí trong nông nghiệp tăng lên (số máy kéo năm 1965 tăng gấp 3,3 lần so với năm 1960).

Những biện pháp trên đã góp phần làm tăng sản lượng và năng suất lúa. Đến cuối năm 1965, toàn miền Bắc có 9 huyện và 125 hợp tác xã đạt hoặc vượt năng suất 5 tấn thóc trên một héc ta. Sản lượng lương thực đạt bình quân mỗi năm trong thời kì này khoảng 6 triệu tấn; do đó, về cơ bản, miền Bắc đã tự giải quyết được vấn đề lương thực ở trong nước. Quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp cũng được củng cố và hoàn thiện một bước. Tính đến năm 1965, toàn miền Bắc có 90,1% tổng số hộ nông dân tham gia hợp tác xã; 60,1% hợp tác xã đã chuyển lên bậc cao. Các hợp tác xã nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Nhờ có hợp tác xã, nông thôn - một địa bàn chiến lược rộng lớn của căn cứ địa miền Bắc - mới được củng cố và phát triển, tạo nên sự nhất trí cao về chính trị và tinh thần, động viên và tổ chức dược hàng triệu thanh niên ra tiền tuyến, bảo đảm hậu phương quân đội, hậu phương chiến tranh ngày càng vững mạnh.

Công nghiệp được Nhà nước ưu tiên đầu tư khoảng 48% số vốn xây dựng cơ bản, trong đó đầu tư vào công nghiệp nặng lên tới gần 80%. Nhiều cơ sở công nghiệp nặng hình thành, đáng chú ý là Khu Liên hiệp gang thép Thái Nguyên, Nhà máy Nhiệt điện Uống Bí, Thủy điện Thác Bà, Phân đạm Hà Bắc, Supe phối phát Lâm Thao... Tính đến năm 1965, toàn miền Bắc có 1.132 xí nghiệp công nghiệp quốc doanh, trong đó có 205 xí nghiệp trung ương và 927 xí nghiệp địa phương. Công nghiệp quốc doanh chiếm 93,1 % tổng giá trị sản lượng công nghiệp toàn miền Bắc.

Công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp cũng phát triển nhanh chóng với gần 2.600 hợp tác xã chuyên nghiệp tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp, cung cấp được khoảng 80% hàng tiêu dùng cho nhân dân. Thương nghiệp quốc doanh được ưu tiên phát triển nên nhanh chóng chiếm lĩnh được thị trường trong nước, góp phần củng cố quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa. Quan hệ thương mại giữa miền Bắc nước ta với các nước trên thế giới cũng được mở rộng, từ 10 nước (trong đó có 7 nước xã hội chủ nghĩa) trong năm 1955, đến năm 1965, đã tăng lên 35 nước (trong đó có 12 nước xã hội chủ nghĩa).

Để phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế và tăng cường khả năng quốc phòng, ngành Giao thông vận tải cũng được chú trọng đầu tư phát triển. Hệ thống đường sắt, đường bộ, đường thủy cầu cống được xây dựng, cải tạo nâng cấp.

Đời sống vật chất của nhân dân miền Bắc được nâng lên rõ rệt.

Tính chung trong 5 năm (1961 - 1965), thu nhập quốc dân tăng bình quân 3,4%; riêng thu nhập của nông dân tăng 25%.

Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế được quan tâm phát triển. Việc xây dựng nền văn hoá mới và con người mới xã hội chủ nghĩa được coi trọng. Nền giáo dục quốc dân phát triển nhanh chóng và toàn diện, cả về ngành học và số lượng học sinh, về xây dựng đội ngũ giáo viên cũng như về việc xoá nạn mù chữ, từng bước nâng cao trình độ học vấn cho các tầng lớp nhân dân.

Những năm 1961 - 1965 đánh dấu bước phát triển khá nhanh chóng của ngành Giáo dục phổ thông. Từ 7.066 trường học, với l899.000 học sinh trong năm học 1960 - 1961, đã tăng lên 10.294 trường học, với 2.676.000 học sinh trong năm 1964 -
1965.

Giáo dục đại học cũng phát triển nhanh với ba loại hình đào tạo (chính quy, chuyên tu và tại chức). Trong năm học 1960 - 1961, miền bắc có 10 trường đại học, với 1.260 giáo viên và 16.690 sinh viên; đến năm học 1965 - 1966 đã có 21 trường, với 3.590 giáo viên và 34.208 sinh viên. Hệ thống các trường trung học chuyên nghiệp được mở rộng. Đến năm 1965, miền Bắc có 154 trường, với 3.159 giáo viên và 60.018 học sinh.

Mạng lưới y tế gồm hệ thống các bệnh viện, trạm xá ... được xây dựng rộng khắp: 70% số huyện có bệnh viện, 90% số xã có trạm y tế. Số bác sĩ từ 409 người trong năm 1960, đã tăng lên 1.525 người trong năm 1965.

Trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, đế quốc Mĩ và tay sai luôn luôn tìm cách phá hoại, vấn đề củng cố và bảo vệ vững chắc chế độ xã hội chủ nghĩa miền Bắc trở thành một trong những nhiệm vụ hàng đầu. Hệ thống chính trị thường xuyên được củng cố và kiện toàn. Tháng 10-1962, Quốc hội (khoá III thông qua Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp. Ngày 26-4-1964, cử tri miền Bắc tham gia bầu cử Quốc hội (khoá III): Hơn 50% đại biểu là những người trực tiếp sản xuất, anh hùng lao động, anh hùng quân đội và chiến sĩ thi đua được bầu vào cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước.

Quân đội nhân dân Việt Nam được xây dựng một bước thành quân đội chính quy và bước đầu được trang bị hiện đai, đủ sức bảo vệ miền Bắc và đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cuộc cách mạng giải phóng miền Nam. Lực lượng quân thường trực từ 170.000 người trong những năm 1961-1962, đã tăng lên gần 300.000 người trong năm 1964 do yêu cầu của cách mạng ở cả hai miền; không kể 160.000 công nhân viên quốc phòng và 21.000 người trong lực lượng công an vũ trang.

Những thành tựu đạt được trong 10 năm thực hiện cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa và nhất là trong việc thực hiện kế hoạch nhà nước 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) đã làm thay đổi hẳn bộ mặt xã hội miền Bắc. Tại Hội nghị Chính trị đặc biệt (3-1964), Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Trong 10 năm qua, miền Bắc nước ta đã tiến những bước dài chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội và con người đều đổi mới" 1.

Tiềm lực mọi mặt của xã hội miền Bắc được tăng cường; sự nhất trí về chính trị tinh thần ngày càng được phát huy cao độ trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân. Đây chính là những nhân tố hết sức quan trọng, giúp cho miền Bắc không những có đủ sức mạnh để đánh thắng chiến tranh phá hoại do đế quốc Mĩ gây ra, mà còn làm tròn vai trò hậu phương lớn đối với miền Nam cũng như đối với nghĩa vụ quốc tế.

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 -1965), chúng ta đã phạm phải một số sai lầm, khuyết điểm do tư tưởng giáo điều, chủ quan, nóng vội gây nên.

Đó là sự vận dụng thiếu chọn lọc mô hình, kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội của các nước anh em; là việc đề ra phương châm tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội; do đó, chúng ta đã đầu tư quá nhiều vốn, nhân công và kĩ thuật vào việc xây dựng công nghiệp nặng trong khi chưa có đủ điều kiện. Những sai lầm này tiếp tục tồn tại trong nhiều năm sau.

Kế hoạch nhà nước 5 năm (1961 - 1965) đang thực hiện có kết quả thì đế quốc Mĩ gây ra cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân với mức độ ngày càng ác liệt đối với miền Bắc. Nhân dân miền Bắc phải chuyển hướng xây dựng và phát triển kinh tế cho phù hợp với tình hình.

 

V- Miền Nam chiến đấu chổng chiến lược "chiến tranh đặc biệt” (1961 – 9651)

1. Chiến lược “chiến tranh đặc biệt" của Mĩ ở miền Nam Việt Nam

Keunơđi lên cầm quyền từ ngày 20-1-1961 trong tình hình thế giới có nhiều chuyển biến lớn. Đó là lúc hệ thống xã hội chủ nghĩa, phong trào giải phóng dân tộc cũng như phong trào công nhân quốc tế có những bước phát triển có lợi cho lực lượng cách mạng. Chiến lược toàn cầu "Trả đũa ồ ạt" từ sau khi triển khai liên tiếp gặp thất bại: Năm 1954, Pháp - Mĩ thất bại ở Điện Biên Phủ; năm 1958, chính phủ thân Mĩ ở bắc bị lật đổ; năm 1959, cách mạng Cu Ba thắng lợi; cuối năm 1959 đầu năm 1960, phong trào "đồng khởi" của nhân dân miền Nam bùng nổ và thắng lợi to lớn...

Tất cả tình hình trên buộc đế quốc Mĩ phải thay đổi chiến lược toàn cầu. Về chính trị, Keunơđi đề ra "Chiến lược vì hoà bình" nhằm chia rẽ các nước xã hội chủ nghĩa, chia rẽ mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với lực lượng xã hội chủ nghĩa và lực lượng độc lập dân tộc.

Về quân sự, Kennơđi chuyển sang chiến lược "Phản ứng linh hoạt", với ba loại hình chiến tranh tương ứng ba mức độ phản ứng: "Chiến tranh đặc biệt", "chiến tranh cục bộ" và "chiến tranh tổng lực". Chiến tranh đặc biệt là loại hình chiến tranh đặc thù của chủ nghĩa thực dân mới Mĩ . Mục đích của nó là chống lại chiến tranh du kích, chiến tranh giải phóng. Hình thức của nó là phối hợp đầy đủ các hoạt động quân sự, chính trị, kinh tế và tâm lí.

Ngày 8-5-1961, Tổng thống Kennơđi phê chuẩn chính sách đối với Việt Nam do Hội đồng An ninh quốc gia Mĩ soạn thảo.

Đến ngày 13-5-1961, bản thông cáo chung Giôn xơn - Diệm được kí kết, chính thức xác nhận những chủ trương, biện pháp đã được Keunơđi phê chuẩn, với nội dung cơ bản là: Tăng cường viện trợ kinh tế và lực lượng cố vấn quân sự cho miền Nam, phát triển ngụy quân, đẩy mạnh bình định chống du kích, ra sức phá hoại bằng biệt kích ở miền Bắc Việt Nam.

Tháng 6-1961, Stalây (Tiến sĩ thuộc Viện Nghiên cứu Stanfort) được cử sang Sài Gòn với nhiệm vụ thị sát tình hình, bổ sung và hoàn chỉnh kế hoạch của Mĩ. Tiếp đó, Taylo (Đại tướng, Chủ tịch Hội đồng tham mưu liên quân Mĩ ) cũng được phái sang miền Nam Việt Nam nghiên cứu tình hình, đề xuất ý kiến bổ sung cho kế hoạch Stalây, hợp thành một kế hoạch hoàn chỉnh mang tên: Kế hoạch Stalây - Taylo. Kế hoạch Stalây - Taylo, được Tổng thống Keunơđi phê chuẩn ngày 14-11-1961, có nội dung chủ yếu tương tự với bản thông cáo chung Giôn xơn - Diệm, nhưng được cụ thể hoá bằng ba bước thực hiện: - Bước 1, dự kiến trong vòng 18 tháng (từ giữa năm 1961 đến cuối năm 1962) tập trung dồn dân vào 16.000 ấp chiến lược, cơ bản hoàn thành bình định miền Nam, đồng thời gây cơ sở gián điệp ở miền Bắc.

- Bước 2, trong năm 1963, tập trung khôi phục nền kinh tế miền Nam, tiếp tục hoàn tất chương trình bình định, tăng cường thêm lực lượng quân đội Sài Gòn, tiến hành các hoạt động gây rối, phá hoại miền Bắc.

- Bước 3, tập trung vào việc phát triển kinh tế miền Nam và tiến công miền Bắc.

Với mục đích cốt lõi nhằm bình định miền Nam trong 18

tháng, Kế hoạch Stalây - Tay lo được thực hiện theo ba biện pháp cơ bản: - Tăng cường lực lượng ngụy quân và phương tiện chiến tranh hiện đại, chủ yếu dùng chiến thuật "Trực thăng vận" và thiết xa vận" để nâng cao tính cơ động cho quân ngụy.

- Dồn dân lập ấp chiến lược. Củng cố ngụy quyền và đô thị.

- Ngoài ra, chúng còn ra sức ngăn chặn biên giới và kiểm soát ven biển nhằm cắt đứt sự chi viện của miền Bắc đối với cách mạng miền Nam.

Tháng 4-1961, ngụy quyền Diệm tổ chức miền Nam thành 4

vùng chiến thuật do các viên tướng cầm đầu cả về quân sự và hành chính. Chúng tăng cường bắt lính, phát triển ngụy quân từ 15 vạn quân chính quy (năm 1960) lên 36,2 vạn (năm 1962) chưa kể 17,4 vạn trong lực lượng bảo an và 128 đại đội dân vệ ở khắp các ấp, xã. Bên cạnh đó, từ tháng 5-1961, Mĩ đưa vào miền Nam hơn 400 tên lính thuộc lực lượng đặc biệt và 100 cố vấn quân sự, 1.600 Fhuyên gia giúp chính quyền Diệm mở rộng, cải tổ quân ngụy, đưa tổng số quân Mĩ ở miền Nam từ 1.077 tên (1960) lên 10.960 tên (1962).

Ngày 8-2-1962, Bộ chỉ huy quân sự Mĩ được thành lập tại Sài Gòn do Tướng Hackin chỉ huy, gọi tắt là MACV, thay cho phái đoàn viện trợ quân sự Mĩ (MAAG) trước đó. Viện trợ Mĩ cũng tăng dần, từ 321,7 triệu đôla (có 80 triệu đôla vũ khí) trong tài khoá 1961 - 1962, lên 675 triệu đôla (có 100 triệu đôla vũ khí) trong tài khoá 1962 – 1963 ấp chiến lược được Mĩ - ngụy coi là quốc sách, là xương sống của chiến lược "chiến tranh đặc biệt", là biện pháp cơ bản để thực hiện "bình định " miền Nam.

Với quốc sách ấp chiến lược, Mĩ - ngụy nhằm tách nhân dân miền Nam ra khỏi lực lượng cách mạng, cô lập và tiến tới bao vây, tiêu diệt lực lượng cách mạng theo kiểu "tát nước bắt cá ".

Để thực hiện quốc sách ấp chiến lược, Mĩ -ngụy tiến hành những cuộc càn quét, dồn dân với sự chi viện, yểm trợ của hoả lực và hậu cần của Mĩ bằng các chiến thuật “trực thăng vận ", thiết xa vận ". Cùng với việc dồn dân, chúng thực hiện rào làng, xây bết, bắt lính, tổ chức bảo an, dân vệ, lùng sục, bắt bớ, đánh phá cơ sở cách mạng.

Đi đôi với biện pháp dồn dân lập ấp chiến lược, Mĩ - ngụy còn cho máy bay rải chất độc hoá học, ném bom phát quang các vùng căn cứ cách mạng, các đường hành lang dọc Trường Sơn và khu giới tuyến quân sự tạm thời. Mặt khác, chúng tung các toán biệt kích vào các tỉnh khu IV và Tây Bắc để tiến hành các hoạt động phá hoại miền Bắc.

Tóm lại, "chiến tranh đặc biệt" của Mĩ ở miền Nam Việt Nam là một cuộc chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới, được tiến hành bằng lực lượng ngụy quân do Mĩ trực tiếp tổ chức, trang bị và huấn luyện, do cố vấn quân sự Mĩ chỉ huy. Với chiến lược "chiến tranh đặc biệt", đế quốc Mĩ không chỉ nhằm đàn áp, tiến tới tiêu diệt lực lượng cách mạng, thực hiện "bình định miền Nam, áp đặt chủ nghĩa thực dân kiểu mới, tiến công xâm lược miền Bắc, mà còn nhằm âm mưu dùng miền Nam làm nơi thí điểm để đàn áp phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.

2- Miền Nam chiến đấu chống chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mĩ

Để đối phó với âm mưu và thủ đoạn chiến tranh mới của đế quốc Mĩ, ngay từ tháng 1-1961 và tiếp đó là tháng 2-1962, Bộ Chính trị đã có chỉ thị và Nghị quyết nêu rõ nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là từ khởi nghĩa từng phần phát triển lên thành cuộc chiến tranh cách mạng trên quy mô toàn miền.

Theo quan điểm của Đảng, trong quá trình tiến hành chiến tranh cách mạng, các cuộc khởi nghĩa từng phần vẫn tiếp diễn, đấu tranh chính trị vẫn được duy trì và đẩy mạnh; đồng thời phát triển đấu tranh quân sự lên một bước mới, ngang tầm với đấu tranh chính trì.

Để đánh bại chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mĩ và tay sai, Đảng chủ trương tiếp tục giữ vững và phát triển thế chiến lược tiến công; kết hợp chặt chẽ hại lực lượng chính trị và vũ trang, đánh địch bằng ba mũi giáp công (quân sự, chính trị và binh vận), trên cả ba vùng chiến lược (rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị). Mũi nhọn đấu tranh tập trung vào nhiệm vụ chống càn quét và phá kế hoạch lập ấp chiến lược, đẩy lùi và đánh bại chính sách bình định, giành dân của địch.

Tiếp sau sự ra đời của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, tháng 1-1961, Trung ương Cục miền Nam được thành lập thay cho Xứ uỷ Nam Bộ trước đây. Ngày 15-2-1961, các lực lượng vũ trang cách mạng được thống nhất thành Quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Tuyến đường vận tải chiến lược Tây Trường Sơn được mở rộng, bảo đảm việc chi viện cho chiến trường miền Nam đánh Mĩ . Dưới ngọn cờ đoàn kết cứu nước của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam do Đảng lãnh đạo, từ năm 1961, quân và dân miền Nam từng bước đập tan các kế hoạch chiến tranh của Mĩ - ngụy trong chiến lược "chiến tranh đặc biệt".

Đấu tranh quân sự kết hợp với đấu tranh chính trị được đẩy mạnh trên cả ba vùng chiến lược . Tính riêng trong năm 1961, quân và dân miền Nam đánh 15.525 trận lớn, nhỏ, loại khỏi vòng chiến đấu 28.968 tên địch, thu 6.000 vũ khí các loại; đồng thời huy động 33,3 triệu lượt người xuống đường đấu tranh chính trị trực diện với địch, làm cho 14.500 binh sĩ ngụy đảo ngũ, rã ngũ. Vùng giải phóng được giữ vững với hơn 1 vạn thôn, xã và gần 6 triệu dân.

Sang năm 1962, đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị tiếp tục phát triển với những thắng lợi mới, lớn hơn. Quân và dân ta đã đánh 19.108 trận, tiêu diệt và làm bị thương 55.119 tên địch (trong đó có 324 tên Mĩ). Trên mặt trận đấu tranh chính trị, hàng chục triệu lượt người tham gia chống, phá kế hoạch lập ấp chiến lược đi đôi với xây dựng làng chiến đấu. Tính đến cuối năm 1962, trên toàn miền Nam, có 2.665 ấp chiến lược bị phá; trong đó có 1 15 ấp được xây dựng thành làng chiến đấu, giải phóng hoàn toàn 4.441 thôn trong tổng số 17.162 thôn, cùng với 6,5 triệu trong tổng số 14 triệu dân. Đến cuối năm 1963, so với kế hoạch, Mĩ - ngụy chỉ lập được 7.500 ấp chiến lược nhưng đã bị phá 4.700 ấp, trong đó có 2.000 ấp đã trở thành làng chiến đấu.

Phong trào đấu tranh chính trị cũng bắt đầu được đẩy mạnh trong các đô thị. Trong hai năm 1961 - 1962, công nhân và nhân dân lao động trong các thành thị miền Nam đã tổ chức 8.916 cuộc đấu tranh, với 744.000 lượt người tham gia. Tầng lớp trí thức và học sinh, sinh viên nhiều lần xuống đường, đấu tranh đòi "thực hiện hoà bình, trung lập ở miền Nam. Uy tín của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ngày càng được nâng cao và mở rộng. Đến cuối năm 1962, Mặt trận đã có 20 tổ chức đoàn thể quần chúng; trong đó có những tổ chức bao gồm hàng chục vạn hội viên; có những tổ chức còn đặt các cơ quan thường trực ở nước ngoài.

Trên cơ sở đó, ngày 2-1-1963, quân và dân miền Nam lập được chiến công vang dội ở ấp Bắc (Cai Lây, Mĩ Tho). Tại đây, lần đầu tiên, quân giải phóng với lực lượng ít hơn địch 10 lần, phối hợp cùng với nhân dân địa phương chiến đấu đánh tan cuộc càn quét của trên 2.000 quân ngụy được vũ trang đầy đủ, có máy bay lên thẳng và xe bọc thép lội nước M.113 yểm trợ, do 2 đại tá Mĩ và 1 tướng ngụy trực tiếp chỉ huy. Sau 5 đợt tiến công bị quân và dân ta đánh lùi, địch phải chấm dứt cuộc hành quân với những tổn thất nặng nề: 450 tên (trong đó có 9 cố vấn Mĩ) bị chết và bị thương; 16 máy bay lên thẳng bị bắn rơi, bắn hỏng; 3 xe bọc thép M.113 bị phá hỏng, 1 tàu chiến bị đánh chìm.

Chiến thắng ấp Bắc đánh dấu bước trưởng thành của lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam, mở đầu sự phá sản của chiến thuật "Trực thăng vận" và "Thiết xa vận", đánh sụp lòng tin của quân ngụy vào trang bị kĩ thuật hiện đại của Mĩ . Chiến thắng ấp Bắc chứng tỏ quân và dân miền Nam hoàn toàn có khả năng đánh thắng quân ngụy trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt"; mở đầu cho cao trào diệt ngụy trên toàn miền Nam.

"Thi đua ấp Bắc, giết giặc lập công", trong năm 1963, quân và dân miền Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu 78.000 tên địch (trong đó có 600 tên Mĩ), phá 2.895 ấp chiến lược trong tổng số 6.164 ấp do địch lập ra, giải phóng 12.000 thôn ấp, với gần 9 triệu dân.

Được cổ vũ bởi những thắng lợi quân sự và phong trào phá ấp chiến lược ở nông thôn, miền núi, từ năm 1963, phong trào đấu tranh chính trị trong các đô thị có những bước phát triển mới, nổi bật là những cuộc đấu tranh liên tục, không khoan nhượng của học sinh, sinh viên và đồng bào Phật giáo chống lại sự đàn áp, kì thị tôn giáo của tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm.

Ngày 8-5-1963, khoảng 2 vạn đồng bào Huế, trong đó có 1 vạn tăng ni, Phật tử rầm rộ xuống đường biểu tình, phản đối chính quyền Diệm cấm treo cờ trong dịp lễ Phật đản. Ngụy quyền Diệm cho tay chân đàn áp, làm chết 13 người và nhiều người bị thương.

Ngày 14-5-1963, Uỷ ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra tuyên bố kêu gọi nhân dân cả nước và nhân dân thế giới ủng hộ cuộc đấu tranh của đồng bào Phật giáo miền Nam. Làn sóng đấu tranh chống ngụy quyền Ngô Đình Diệm nhanh chóng lan rộng, nhất là ở Sài Gòn, Huế và Đà Nẵng. Đỉnh cao của phong trào Phật giáo là sự kiện Hoà thượng Thích Quảng Đức tự thiêu (ll-6-1963) để phản đối chính sách đàn áp Phật giáo của chính quyền Diệm. Ngày 16-6-1963, khoảng 70 vạn đồng bào và tín đồ Phật giáo ở Sài Gòn xuống đường biểu tình, làm rung chuyển chính quyền Diệm. Tiếp đến, ngày 25-8-1963, toàn thể học sinh, sinh viên Sài Gòn tổng bãi khoá, tổ chức 6 cuộc biểu tình lớn. sự phát triển mạnh mẽ của phong trào đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang đã đẩy nhanh quá trình suy sụp của ngụy quyền. Mâu thuẫn nội bộ chính quyền Diệm tăng lên. Các tướng lĩnh cầm đầu ngụy quân bắt đầu vận động lôi kéo các phần tử bất mãn với ngụy quyền Diệm, tính kế đảo chính. Trong khi đó, Bộ Ngoại giao Mĩ cũng tuyên bố không tán thành chính sách đàn áp Phật giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm. Đại sứ Mĩ Nâuting bị triệu hồi về nước và Ca bết Lốt được cử sang thay thế. Ngày 1-11-1963, được sự ủng hộ của Mĩ, một nhóm tướng lĩnh ngụy do Dương Văn Minh cầm đầu làm cuộc đảo chính, giết chết Diệm - Nhu. Kế hoạch Stalây - Taylo hoàn toàn phá sản. Ngụy quyền miền Nam càng lún sâu hơn vào tình trạng khủng hoảng triền miên.

Một thời gian không lâu sau khi chế độ độc tài gia đình trị của Diệm - Nhu bị lật đổ, ngày 22-11-1963, Kennơđi bị ám sát.

Phó tổng thống Mĩ Giôn xơn lên thay, tiếp tục đẩy mạnh cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.

Để cứu vãn nguy cơ thất bại của chiến lược "chiến tranh đặc biệt", vào tháng 12-1963, một phái đoàn quân sự cấp cao gồm 15 tướng, do Bộ trưởng Quốc phòng Mĩ Mắc Namara cầm đầu, được phái sang miền Nam nghiên cứu tình hình. Hai tháng sau, một kế hoạch mới do Mắc Namara và Hội đồng tham mưu trưởng liên quân vạch ra, được Tổng thống Giôn xơn phê chuẩn, gọi là Kế hoạch Giôn xơn - Mắc Namara. Nội dung chủ yếu của kế hoạch này là tăng cường sự chỉ huy trực tiếp của Mĩ ; tăng số lượng quân ngụy và phương tiện chiến tranh, vũ khí trang bị cho quân ngụy; xúc tiến kế hoạch lập ấp chiến lược, cố gắng bình định miền Nam có trọng điểm trong hai năm (1964 - 1965); dùng không quân và hải quân tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc.

Tháng 6-1964, Taylo được phái sang thay Ca bết Lết làm Đại sứ tại miền Nam Việt Nam, được Giônxớn cho phép toàn quyền hành động cả về quân sự và chính trị để trực tiếp thực hiện nội dung kế hoạch trên.

Đến cuối năm 1964, số lính và cố vấn Mĩ có mặt tại miền Nam Việt Nam đã lên tới 26.200 tên; số quân ngụy cũng tăng lên 653.000 tên (trong đó có 267.000 quân chủ lực) với những trang bị, phương tiện chiến tranh mới.

Như vậy, Kế hoạch Giôn xơn - Mắc Namara là sự tiếp tục chiến lược "chiến tranh đặc biệt" với quy mô lớn hơn, thể hiện sự ngoan cố, hiếu chiến của đế quốc Mĩ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.

Trong lúc Diệm - Nhu đổ và Mĩ thay đổi kế hoạch trong chiến lược "chiến tranh đặc biệt", tình hình quốc tế cũng có những diễn biến rất phức tạp. Mâu thuẫn hai nước Liên Xô - Trung Quốc không những không dịu đi, mà còn gay gắt hơn.

Điều này gây ảnh hưởng không có lợi cho cuộc chiến đấu của nhân dân ta.

Trước tình hình đó, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 9 (ll-1963) đã kịp thời xác định nhiều vấn đề rất quan trọng cả về đường lối cách mạng và chiến tranh cách mạng miền Nam, cũng như về đường lối đoàn kết quốc tế.

Đối với cách mạng miền Nam, Trung ương Đảng quyết định nhiều vấn đề chiến lược nhằm thúc đẩy cuộc chiến tranh cách mạng: - Tiếp tục khẳng định phương châm kết hợp song song đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang; cả hai hình thức đấu tranh đều có vai trò quyết định cơ bản; đồng thời nhấn mạnh yêu cầu mới của đấu tranh vũ trang để chủ động và kịp thời đối phó với hành động tăng cường chiến tranh của địch.

- Tiếp tục khẳng định phương châm chiến lược ba vùng; kiên quyết không cho địch phân tuyến, phân vùng để giữ vững thế trận cài răng lược hiểm hóc, vững chắc của chiến tranh nhân dân.

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 9 và triển khai kế hoạch tác chiến của Trung ương Cục miền Nam, đồng thời hưởng ứng lời kêu gọi của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (11-1964), quân và dân miền Nam có những nỗ lực vượt bậc, đẩy mạnh chiến tranh cách mạng, liên tiếp giành thắng lợi có tính chất quyết định.

Phong trào đấu tranh chính trị vẫn tiếp tục lan rộng, phá vỡ từng mảng lớn quốc sách ấp chiến lược của Mĩ - ngụy. Đến cuối năm 1964, địch chỉ còn kiểm soát được 3.300 ấp; đến giữa năm 1965, chúng chỉ còn kiểm soát được 2.200 ấp. Vùng giải phóng được mở rộng, chiếm 4/5 đất đai với 10 triệu dân. Trong các vùng giải phóng, chính quyền cách mạng thực hiện các chính sách tự do dân chủ. Tính đến cuối năm 1965, chính quyền cách mạng đã chia trên 2 triệu ha (chiếm 70% diện tích đất canh tác) cho nông dân không có ruộng, tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển. Tai các vùng giải phóng Trung và Tây Nam Bộ, có hơn 5.000 trường phổ thông với hơn 50 vạn học sinh theo học.

Phong trào đấu tranh chính trị của các tầng lớp nhân dân càng làm cho nội bộ ngụy quyền luôn bị chia rẽ, lâm vào cuộc khủng hoảng trầm trọng. Chỉ trong hơn một năm (1964 - giữa năm 1965), ở miền Nam liên tiếp diễn ra hơn 10 cuộc đảo chính .

Trên mặt trận quân sự, quân giải phóng trưởng thành nhanh chóng về mọi mặt. Với sự hình thành lực lượng vũ trang ba thứ quân đều khắp trên toàn miền Nam, trong năm 1964, quân giải phóng đã mở những chiến dịch tiến công quy mô lớn, tiêu biểu là trận đánh mở màn vào ấp Bình Giã (Bà Rịa). Đây là một ấp chiến lược và địch coi là hậu cứ an toàn của chúng. Đây cũng là lần đầu tiên quân giải phóng tập trung một lực lượng lớn nhất (7.000 quân) để mở một chiến dịch dài ngày (12-1964-11965), trên một địa bàn rộng lớn thuộc 4 tỉnh. Bà Rịa - Long Khánh - Biên Hoà - Bình Thuận. Quân ta đã diệt gọn 2 tiểu đoàn chủ lực ngụy và 1 chi đoàn xe bọc thép, diệt 7 đại đội bảo an và làm tan rã hầu hết lực lượng dân vệ trong khu vực. Trận Bình Giã mở ra thời kì mới - thời kì kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, tiến công quân sự của lực lượng vũ trang với nổi dậy của quần chúng.

Để cứu vãn tình thế ngày càng bất lợi trong cuộc chiến tranh, từ đầu năm 1965, đế quốc Mĩ bắt đầu đưa một số đơn vị quân đội viễn chinh và quân chư hầu Nam Triều Tiên vào miền Nam Việt Nam. Ngày 8-3-1965, sau khi đã đưa một đại đội máy bay F.l05 vào Biên Hoà và một tiểu đoàn tên lửa phòng không vào Đà Nẵng, Mĩ cho hai tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn 9 lính thủy đánh bộ từ ôkinaoa vào Đà Năng. Từ sau đó, quân viễn chinh (chủ yếu là lính thủy đánh bộ) tiếp tục được đưa vào miền Nam.

Chiến lược "chiến tranh đặc biệt" được đẩy lên đến mức cao nhất; nhân tố của "chiến tranh cục bộ" bắt đầu xuất hiện. Như vậy, với chiến thắng Bình Giã của quân và dân miền Nam, chiến lược "chiến tranh đặc biệt" về cơ bản đã bị phá sản.

Tiếp theo trận Bình Giã, quân và dân miền Nam còn giành thắng lợi to lớn ở nhiều nơi, điển hình là trận Ba Gia (Quảng Ngài, 29-5-1965). Đây là một chiến dịch tiến công, cũng mang tính chất tổng hợp, có phối hợp với đấu tranh chính trị trên địa bàn rộng (nhiều huyện) và sâu (vào tận thị xã) ở miền Trung; một chiến dịch sử dụng lực lượng tuy nhỏ (một trung đoàn tăng cường) nhưng đạt hiệu suất chiến đấu cao (diệt 4 tiểu đoàn chủ lực) và có ý nghĩa chiến lược lớn, góp phần quyết định đánh bại hoàn toàn chiến lược “chiến tranh đặc biệt" của Mĩ ở miền Nam Việt Nam.

Đánh thắng chiến lược "chiến tranh đặc biệt", quân và dân ta đã làm thất bại âm mưu của đế quốc Mĩ định dùng miền Nam làm nơi thí điểm một loại chiến tranh xâm lược thực dân mới để đàn áp phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.

Bị thất bại trong chiến lược "chiến tranh đặc biệt", với bản chất ngoan cố và hiếu chiến, đế quốc Mĩ đi đến một bước phiêu lưu quân sự mới, vừa phát động "chiến tranh cục bộ" ở miền Nam, vừa tiến hành chiến tranh phá hoại ở miền Bắc Việt Nam.

Từ đó, cả hai miền Nam - Bắc bước vào thời kì trực tiếp kháng chiến chống đế quốc Mĩ .

(Nguồn: Lịch sử Việt Nam 1945 - 2000 - TS. Nguyễn Xuân Minh)